Chữa bệnh bằng Nhân điện

2315

Chữa bệnh bằng Nhân điện


{tab=Nhân điện}
Khái niệm
I . CON NGƯỜI
Con người là một thực thể của Vũ Trụ. Nói một cách khác, con ngừơi là một tiểu Vũ Trụ.
Bất cứ một thể sống nào cũng bao gồm:
-Thân thể ( nhìn thấy )
-Cơ thể năng lượng ( không nhìn thấy )

Khả năng của con người rất lớn, nhưng chúng ta hiểu biết về mình chẳng bao nhiêu! Thực tế, con người có những khả năng kỳ diệu như sau:

-Thần giao cách cảm – Télépathy.
– Nhìn xuyên không và thời gian – Clairvoyance.
– Đọc được tư tưởng – Télédiagnostic.
– Hiệu ứng toàn lực và toàn thức – Strength & Omnisoience.
– Phẫu thuật tâm linh – Spiritual surgery.
– Chữa bệnh bằng xung năng lượng – Bioenergo therapy.
Tất cả đều có nguồn gốc từ năng lựơng sinh học, gọi là “ NHÂN ĐIỆN”.
Bằng chứng, cách đây 2600 năm đức Phật Thích Ca Mâu Ni, ngài ngồi thiền định mà đắc được lục thông :
– Thiên nhãn thông- Nhìn xa.
– Thiên nhĩ thông – Nghe xa.
– Tha tâm thông – Biết tư tưởng.
– Túc mệnh thông – Biết các đời trước.
– Thần túc thông – Đi như bay.
– Lậu tận thông – Không còn phiền não.

II. NĂNG LƯỢNG VŨ TRỤ LÀ GÌ?
Năng lượng vũ trụ là một loại thanh khí bao trùm khắp không gian.
Nó là một hơi nóng thiên nhiên nuôi sống tất cả: chúng sinh, muông thú và cây cỏ. Không có năng lượng này thì không có bất cứ vật gì còn tồn tại.
-Người Ấn Độ quan niệm nguồn năng lượng vũ trụ này là khí PRANA.
-Người Trung Quốc cũng biết thu ngoại khí, tức là năng lượng vũ trụ để luyện thành khí công.
-Nền y học Đông phương gọi là Tiên thiên khí – Hậu thiên khí.
-Các kinh Phật đều nói về Thiền Định, Luân Xa (LX) và Chân Hõa Tam Muội. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa và Kinh A Di Đà nói rất rõ về xữ dụng các Luân Xa( LX ) và Thiền.
-Tổ Bồ Đề Đạt Ma ( tổ thứ 1 của Trung Hoa ) dùng phép thiền, lấy năng lượng vũ trụ để chữa bệnh.
Phật giáo Tây Tạng chấp nhận phép thiền YOGA ( lấy năng lượng vũ trụ ) để tạo ra : mắt thần, khinh thân và minh triết.

III. NĂNG LƯỢNG SINH HỌC LÀ GÌ?
– Năng lượng sinh học là một loại năng lượng trong cơ thể con người , ta gọi là
NHÂN ĐIỆN. Sỡ dĩ gọi là là nhân điện là đễ phân biệt với các loài muông thu ù và cây cỏ, chúng cũng có năng lượng Sinh học như ta.
– Nhân điện có được là nhờ cơ thể chúng ta thu nhận năng lượng vũ trụ qua các
hệ thống luân xa trong con người. Khi thu hút vào trong người, nó trở thành năng lượng sinh học, gọi là nhân điện. Nó hoàn toàn không phải như điện tim, điện não, điện cơ. Nhân điện ở từng cơ thể mạnh yếu khác nhau, và tỏa ra ngoài một vùng ánh sáng bao quanh, ta gọi là hào quang mà mắt thường không nhìn thấy.
Các nhà sư Tây Tạng đã khổ luyện môn này để có thể nhìn vào hào quang mà biết được đối tượng khỏe yếu, và bị bệnh gì?
Chính năng lượng sinh học này giúp con người khai thác được những khả năng kỳ diệu của mình, như đã trình bày ở trên.
NĂNG LƯỢNG VŨ TRỤ ———> Vào con người:
-Qua hệ thống luân xa
-Chuyển thành năng lượng
sinh học gọi là nhân điện
Nhân điện :
– Tạo và phát ra sóng não mang thông tin.
– Giúp cho đời sống được quân bình, khõe mạnh hay yếu.
– Nếu các luân xa được khai mở, năng lượng vũ trụ thu hút vào được nhiều,
làm cho có đủ lực để chữa bệnh cho người, bằng cách phát ra lực từ bàn tay gọi là”xung nănglựơng” để trị liệu.
Xung năng lượng có đủ mạnh, đủ nhiều hay không là do khả năng của thầy chữa, còn tiếp nhận được bao nhiêu? Kết qủa ra sao? Là tùy thuộc vào khả năng tiếp thu của bệnh nhận. Cho nên, khi chữa bệnh, cả người chữa và người được chữa phải trong tư thế tĩnh tâm.

IV. LÀM SAO “ XUNG NĂNG LƯỢNG” TRỊ ĐƯỢC BỆNH?
Khi cơ thể lâm bệnh, tức là màng tế bào, màng mô, hoặc cơ quan bị mất cân bằng hoạt động của điện áp.
Các “ion” kim loại có thể từ trong ra ngoài hoặc ngược lại, hoặc sắp xếp không đúng quy luật nào hết.
Những ‘’ion” này lại rất nhạy bén đối với năng lượng hoặc điện trường.
Muốn lập lại trật tự, cần phải dùng đến ngoại lực như: hóa chất, tác nhân, vật lý, hoặc năng lượng để cân bằng.Chính sự không cân bằng tạo ra các bệnh.
Phương pháp trị bệnh bằng nhân điện dựa vào nguyên tắc trên. Người có “nhân điện” tiến hành các thao tác lên các luân xa, huyệt, tạo xung năng lượng từ bàn tay mình, truyền vào cơ thể của bệnh nhân là người tiếp nhận và sử dụng năng lượng đó để cân bằng và lập lại trật tự.
Châm cứu hoăc day huyệt cũng đềù có mục đích như trên, nhưng:
– Châm cứu, day huyệt kích thích cơ thể, để nó tự điều tiết. Nhưng vì cơ thể
đang lâm bệnh nên việc tự điều chỉnh thường khó khăn và có thể phải kéo dài.
– Dùng hóa chất cũng lập lại được sự cân bằng của các tế bào, nhưng lại sẽ sinh
ra những phản ứng phụ.
-Ngược lại, nhân điện trực tiếp cung cấp năng lượng cho cơ thể lâm bệnh dưới
dạng “XUNG”, giúp cơ thể tự điều chỉnh, phục hồi trong một thời gian ngắn mà không bị phản ứng phụ (side effect).

V. LUÂN XA LÀ GÌ?
Luân xa (chakras) là một loại huyệt trong con người. Khi hút năng lượng vũ trụ vào cơ thể để nuôi các tế bào liên hệ, nó quay tròn như bánh xe, nên gọi là Luân Xa.
Năng lượng vũ trụ vào nhiều hay ít, tùy thuộc theo sức quay của luân xa.
Với người không được mở luân xa, nó quay rất chậm. Quay nhanh bao nhiêu thì năng lượng vaò bấy nhiêu.
Khi vào trong cơ thể, nó biến thành năng lượng sinh học, gọi là Nhân Điện.Năng lượng này giúp nuôi sống các tế bào, nếu không đủ năng lượng, các tế bào bị tắc nghẽn và sinh ra bệnh. Các môn võ thuật của Trung Hoa đã khai triển lực này gọi là “Chưởng Lực”.Nhân điện càng nhiều thì lực càng mạnh.
VI . TỖNG SỐ LUÂN XA ( huyệt ).
Con người có tất cả:
– 11 Luân xa chính.
– 4 Luân xa phụ.
a) Luân xa chính.
– 6 Luân xa thuộc mạch đốc, phần dương gồm có:
LX 1 – 2 – 3 – 4 – 5 – 7
– 5 Luân xa thuộc mạch nhâm, phần âm gồm có:
LX 6 – 8 – 9 – 10 – 11
b) Luân xa phụ
– 2 Luân xa phụ ở hai bàn tay gọi là huyệt “lao cung” gồm có: LX – 12 – 13
– 2 Luân xa phụ ở hai bàn chân gọi là huyệt “dũng tuyền”gồm có:LX 14-15
Các luân xa kể trên, nếu được khai mỡ nó sẽ quay nhanh. Và thu nhận rất nhiều năng lượng vũ trụ để điều hòa âm dương trong cơ thể.

VII. KHAI MỠ LUÂN XA.
Luân xa được khai mỡ do:
– bẫm sinh (tức là có căn từ kiếp trước).
– Tu thiền lâu ngày.
– Có thể do tai nạn được khai mở.
– Được huấn luyện bởi các huấn luyện viên được xác nhận (certified).
Nếu không được chỉ dẫn, hoặc được huấn luyện, sẽ dể bị rối loạn thần kinh.
-Với những người có căn bản về Thiền, nếu được khai mở luân xa, thì việc
Thu hút năng lượng vũ trụ rất là tiện lợi, nhanh và rất mạnh.
Có 2 loại Thiền: Động – Nhu.
Thiền động dành cho các võ sư luyện khí công, yoga. Họ dùng lối thiền này để thu nhận năng lượng rồi tạo thành sức mạnh phát công.
Thiền nhu dành cho các vị chân tu, nhà sư, cha cố, các nhà ngoại cảm, nhân điện v.v… …. . . Họ dùng năng lượng này cho sự hiểu biết xâu xa, và vào các khả năng kỳ diệu khác.
Dù động hay nhu, Thiền phải được hướng dẩn theo đúng phương pháp, qua sách vở, các thiện trí thức hay các thiền sư. Ngày xưa, chính vị đệ nhất Sư Tổ cũng phải khổ luyện rất lâu với các minh sư, nên mới thành công.
Theo khoa học, não bộ của con người có thể phát ra năm loại sóng điện, được phân biệt như: BÉTA – ALPHA – THÉTA – DELTA – GAMMA .

Sóng Não Chu Kỳ Mục Đích

Khi làm việc hoặc hoạt động.
Khi có suy tư, buồn,bực hoặc
phiền não, thì chu kỳ sẽ tăng
quá 25 HZ làm cho cơ thể
mệt mõi v.v..
– ALPHA 8 – 12 HZ -Trạng thái ngũ

– THÉTA 4 – 8 HZ -Trạng thái thư giãn hoặc vô
– DELTA 1 – 4 HZ thức

-GAMMA < 1HZ -Vô thức hoàn toàn ( thiền )

Trong vô thức hoàn toàn ( vào định) tâm linh trong sạch, tâm lý thoải mái (cộng với các luân xa đã được khai mỡ) giúp ta thu nhận năng lượng vũ trụ rất cao ( vì lúc đó, sóng não hoạt động rất nhỏ).
Tình trạng này có thể ví như 1 ly nước, khi ly không còn nước, thì ta có thể rót thêm nước, ngược lại, khi ly nước đầy rồi thì không thể rót thêm được nữa.

VIII . LỊCH SỬ CỦA NHÂN ĐIỆN
A – Đệ nhất sư tổ DASIRA NARADA ( 1846 – 1924 )
Từ ngày có con người ở trái đất này, thì năng lượng vũ trụ cũng cần có để sống còn.
Thời kỳ đức Phật, Ngài cũng có dạy rất rõ về xử dụng Luân xa và Thiền.
Vào thời kỳ mạt pháp này, chúng ta đã may mắn được Ngài Dasira Narada thị hiện xuống cõi Ta Bà này để cứu giúp chúng sinh.
-Ngài sinh năm 1846 tại Tích Lan.
-Năm 1871, đậu Tiến sĩ triết học Đông phương tại Đai học Nalanda, chính môn này đã giúp Ngài thấu hiểu luật Vô thường, nên Ngài quyết chí Tầâm Sư Học Đạo.
-Vào năm 1893, khi đang ở một địa vị cao trong ngành ngoại giao ở Tích Lan, Ngài xin từ chức và tớùi HY MÃ LẠP SƠN để tu học.
Mười tám năm sau ( 1911 ), Ngài Đắc Đạo ! Pháp của Ngài là NHÂN ĐIỆN . Nhân điện với Xung Năng Lượng từ bàn tay để chữa bệnh , và khai mở Luân Xa cho những ai đến cầu Ngài. Pháp của Ngài thật là Đơn giản nhưng thật là Nhiệm mầu.
Vào năm 1916, Ngài đã truyền lại tất cả những kiến thức tu học cho một người đệ tử mà Ngài đặt hết niềm tin, đó là Sa Di Narada Mahathera.
Rồi đến năm 1924, thì không ai thấy đệ nhất Sư Tổ ở đâu, nên đã phỏng đoán là Ngài viên tịch năm 1924.
B – Đệ nhị sư tổ NARADA MAHATHERA
Năm 18 tuổi, Ngài được đệ nhất Sư Tổ truyền dạy pháp môn NHÂN ĐIỆN để nối tiếp sứ mạng dạy cho hậu thế.
Đệ nhị sư tổ có duyên với nước VN .Ngài đã sang VN nhiều lần để hoằng pháp và có tặng cho chính phủ VN một cây Bồ Đề. Không biết Ngài có dạy cho người VN. nào pháp môn này không? (Rất tiếc tôi không biết .)
Ngài viên tịch 1983, hưởng thọ 85 tuổi.
C – THẦY HUỲNH VĂN TRẠNG
Thầy Huỳnh Văn Trạng là người Việt.Tôi không có duyên được học ông, nhưng được một người biết ông kễ rằng: Ông không học trực tiếp từ tổ nào. Có lẽ vì ông có căn cơ, và có duyên với Tổ Dasira Narada từ tiền kiếp, nên đã lãnh hội Tổ qua thần giao cách cảm, dạy cho ông pháp môn Nhân điện để cứu giúp hậu thế.
Ông không dấu diếm lai lịch,ông nói với mọi người, ông vốn là một công nhân tại xưởng Bason (Hải Quân công xưởng cũ). Những khi chũa bệnh hoặc những chỉ dạy môn sinh là do Tổ truyền qua Thần giao
Vơiù tính khiêm nhường. Ông yêu cầu các môn sinh gọi ông là Huynh 2. Traiù lại; Ông gọi tất cả là Huynh . Đầu tiên, ông dạy cho một số các tu sĩ Thiên Chúa Giáo khu Vũng Tàu; Rồi dạy cho nhiều người Việt. Hiện nay, một số các môn sinh là Trưởng môn các Trung Tâm Trường Sinh Nhân Thế Điện ở trong và ngoài nước. Ông cũng đựơc mời sang Trung quốc thuyết trình và huấn luyện về nhân điện
Ông đã mất năm 2005 tại Sàigòn.
D – THẦY LƯƠNG MINH ĐÁNG
Thầy Lương Minh Đáng – vị sáng lập của Trường Học Năng Lượng Vũ Trụ – đã sinh ngày 30 tháng 01 năm 1942, tại thành phố Mỹ Tho miền nam Việt Nam. Năm 1985, Thầy Đáng đã di trú sang Hoa Kỳ và sau đó đã nhập quốc tịch Mỹ.
Thầy Đáng đã giúp nhiều người có được sức khỏe tốt và số người yêu cầu sự giúp đỡ (miễn phí) đã gia tăng đáng kể. Với sự khuyến khích và lời yêu cầu của số đông người, vào ngày 20 tháng 7 năm 1989, Thầy Đáng đã dạy Khóa Học Cấp 1 đầu tiên cho một nhóm gồm 27 học viên tại tiểu bang California, Hoa Kỳ. Trong những năm sau đó, Thầy đã tiếp tục dạy học tại nhiều quốc gia với sự hiện diện của Thầy hoặc qua hệ thống truyền hình.
Sau sự kiện quá cố của Thầy Đáng tại Melbourne, Úc Châu vào ngày 12 tháng 8 năm 2007, quả phụ của Thầy, Bác Sĩ Theresa Thu-Thủy Nguyễn đã tiếp nối sứ mệnh của Thầy Đáng và trở thành Sứ Giả và giảng viên hàng đầu của Trường Học Năng Lượng Vũ Trụ.
Bác Sĩ Theresa Thu-Thủy Nguyễn đã sinh ngày 27 tháng 11 năm 1957 tại thành phố Saigon, Việt Nam và Cô đã di trú đến Úc Châu vào năm 1979. Cô Thủy đã đậu bằng Cử Nhân Y Khoa và Phẩu Thuật tại trường Đại Học Melbourne, Úc Châu (1988) và vào năm 1997 Cô Thủy được Trường Đại Học Quốc Tế Mở Rộng Y Học Bổ Sung (Colombo, Sri Lanka) cấp bằng Tiến Sĩ (Ph.D.).
Bác Sĩ Thủy hiện nay nhậm chức Chủ Nhiệm của Phân Khóa Trị Liệu bằng Năng Lượng Con Người và Vũ Trụ tại Trường Đại Học Quốc Tế Mở Rộng Y Học Bổ Sung, và đồng thời kiêm chức vị Phó Hiệu Trưởng Bộ Ngoại Vụ của Trường Đại Học. Hiện nay Bác Sĩ Thủy là Chủ Tịch của Học Viện Năng Lượng Con Người, Vũ Trụ và Tâm Linh (HUESA).
Phương Pháp Năng Lượng Vũ Trụ, đã được sáng lập bởi Thầy Đáng, cũng được biết tại nhiều quốc gia qua những danh xưng khác nhau: Năng Lượng Con Người và Vũ Trụ (HUE), Tâm Linh Con Người Thiền Định (SHY), và Nhân Loại Giác Ngộ Tình Thương (MEL).
Tuy nhiên, phương pháp này vẫn được truyền bá giống nhau.

KẾT LUẬN
Luân xa và Nhân điện không phải là 1 thứ mê tín, di đoan.Môn này rất bình đẳng, giúp đở bất cứ ai không phân biệt giai cấp, tôn giáo, hay sắc tộc v.v..
Tuy nhiên, với môn sinh nào là đạo Phật, thì cần nên biết Ngài Dasira Narada, không những là đệ nhất Sư Tổ, mà còn là một vị Đại Bồ Tát, tiếp nối hạnh nguyện của đức Phật:” Chúng sinh vô lượng, thề nguyện độ “ Sử dụng nguồn năng lượng sinh học mà không vào mục đích nhân đạo, sẽ dẩn ta phạm những sai lầm như:
-Thần thánh hóa khã năng của mình
– Mê tín, dị đoan
– Thành một loại ma vương.

{tab=Trường sinh học}

Vào thế kỷ thứ 18, một y sỹ người Đức, ông Friedrich anton Mesmer, đã có một khám phá mới từ trường của vũ trụ và thuyết của ông đựoc gọi là Mesmerism, tức là Animal Magnetism và người pháp đã định nghĩa thuyết này như sau:
Nhân điện chính là ảnh hưởng thật sự, hoặc giả dụ như một người có thể ảnh hưởng cho người khác, nhờ dùng phương tiện bằng những động tác gọi là “truyền điện”. Vấn đề Nhân Điện có thể nói được rằng đó là tất cả khả năng sẵn có của một nhà thôi miên, hoặc nói rõ ra nó chìnm đắm trong một cơn mộng du trong sáng, nó có khả năng đọc tư tưởng, nhìn nghe qua không gian và có thể không cần phải học hỏi (nghiên cứu) nhữn tình trạng y học, không cần biết những tình trạng bệnh lý và có thể chỉ những phương thuốc chữa bệnh một cách đơn giản, hoặc chữa bệnh một cách đơn sơ, bởi những tác động vỗ nhẹ gọi là “truyền điện”.
Năng lượng sinh học hay còn gọi là trường sinh học, hoặc nhân điện là một khả năng thiên phú của một con người, là tiềm năng phi thường súc tích trong một cơ thể.
– Theo Mesmer và Edgar Cayce, kinh nghiệm thực tại cho thấy, những người có từ lực tự nhiên kể trên, có thể sử dụng tối đa lực đó trong vòng 10 năm, thi từ trường sẽ dần dần biến mất, như một nam châm hết điện. Do đó, chúng tôi suy luận rằng: Khi ta biết cách tu thiền rút tiên thiên khí của vũ trụ, và biết xả trược khí ra ngoài, thì ta sẽ hồng hào khoẻ mạnh, thông minh, và có thể đi dến chỗ hợp nhất với vũ trụ, đúng với câu “THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ”.

*Phương pháp bấm huyệt theo TRƯỜNG SINH HỌC.
Thông thường lực từ trường phát xuất từ thân người chữa bệnh và thoất ra ngoài bằng 2 bàn tay. Bệnh nhân đau vùng nào thì người chữa bệnh áp đôi bàn tay vào nơi đau và vùng phụ cận, hợp thêm một số huyệt chính trong cơ thể, thì bệnh nhân sẽ chóng lành, không dùng đến thuốc.
Sau đây là sơ lược các huyệt đạo chính (gọi là Luân xa) dùng để phối hợp trường sinh học để chữa bệnh (dùng lực từ trường tốt trong cơ thể chuyển qua cho bệnh nhân)
A. Luân xa
Từ hạ vì lên óc có 7 CHAKRA nghĩa là 7 luân xa, còn gọi là 7 trung tâm lực.
1. LX1 có tên là MULADHAR: ở vùng bộ phận sinh dục, tượng trưng bằng hoa sen 4 cánh, chữa 1 khối lửa thiên nhiên vô cùng đặc biệt, gọi là Hoả xà còn có tên là KUDALINI, cuốn xung quanh Luân xa.
2. LX2: có tên SVADHISTHANA: ở chót cột xương sống, tượng trưng bằng hoa sen 6 cánh
3. LX3: có tên MANIPURA: nămg tại xuơng sống, ngang nơi ĐAN ĐIỀN (rốn) tượng trưng bằng hoa sen 8 cánh.
4. LX4: có tên là ANAHATA: nằm tại xương sống, ngang tim, tượng trưng bằng hoa sen 10 hay 12 cánh.
5. LX5: có tên là VISUDDHA: nằm tại giữa 2 đầu vai, tượng trưng bằng hoa sen 16 cánh.
6. LX6: có tên là AJNA: nămg giữa trán, tượng trưng bằng hoa sen 2 cánh, nhìn kỹ có 100 cánh nhỏ.
7. LX7 : có tên là SAHASRARA: nằm ngang nơi Nê hoàn, hay là đỉnh đầu, tượng trưng bằng hoa sen 1000 cánh.

B. Hoả xà
HOẢ XÀ (KUNDALINI) là tiềm lực nguồn vũ trụ, khi con Hoả xà đang ngủ ấy, nhờ người tập tu luyện THỞ và THIỀN ĐỊNH, con hoà xà bắt đầu thức dậy và nó bò lên theo cột sống từ Luân xa này tới Luân xa khác. Ở mỗi luân xa người tu đã được một phép thần thông cao hơn, nên không vị con Hoả xà ấy quấy phá, ngoài ra còn được các phép thần thông khác, như minh mẫn, truyền thông cách cảm, biết việc quá khứ, hiện tại, vị lai và các phép khác cũng cao hơn. Những người THIỀN ĐỊNH không ngừng ở các phép ấy, vì người TU muốn đạt tới đích cao hơn, là điều khiển hoàn toàn, và đạt được ĐẠI GIÁC nhờ phép Thiền định, người tu Thiền điều khiển tiềm lực HOẢ XÀ đến LUÂN XA cao nhất là LX7 là trung tâm tinh thần và nhập với nó, thì người tu đạt đến cuối cùng của thiền định gọi là Siêu thức.

Chúng ta phải hết sức kiên nhẫn luyện tập bằng cách thở, cách TẬP TRUNG TƯ TƯỞNG, thì cơ thể mới đủ sức chịu đựng các chuyển động của vũ trụ. Nếu cơ thể và tinh thần con người không đều nhau, nhất là tinh thần không điều khiển cơ thể, các dục vọng và mê say thì sẽ rất nguy hiểm đến sức khoẻ và sự tu luyện.

Hành giả nhiều khi thần bí hoá những phép thần thông, mà sự tu luyện đạt được để thoả mãn sự ham muốn của mình, nên thêu dệt thêm những thần thông do óc tưởng tượng, làm cho nó trở thành những phép hấp dẫn.
Ví dụ:
– Nếu khai thông được LX2 thì linh hồn di chuyển vói tốc độ ánh sáng.
– Khai thông được LX3 thì biết được kiếp trước và vị lai của mình.
– Khai thông đựoc LX4 thì đạt đựoc THA TÂM THÔNG.
– Khai thông đựoc LX5 thì đạt đựoc THIÊN NHĨ THÔNG.
– Khai thông đựoc LX6 thì đạt đựoc THIÊN NHÃN THÔNG.
– Khai thông đựoc LX7 thì đạt đựoc LẬU TÂM THÔNG.

C. Ý nghĩa khoa học của 7 Luân xa (CHAKRAS)

7 luân xa là 7 TRUNG TÂM LỰC có ý nghĩa 7 địa điểm THẦN KINH CÁCH điều khiển các bộ phận và phủ tạng. Mỗi điểm gồm các giây thần kinh giao cảm và đối giao cảm.
Các địa điểm ấy là các trung tâm lực chỉ huy hoạt động, cảm giác có ý thức và tự động của tạng phủ và các bộ phận cơ thể.
*Luân Xa 1 có ý nghĩa địa diểm thần kinh hạ vị.
*Luân Xa 2 có ý nghĩa địa điểm thần kinh xương cùng.
*Luân Xa 3 có ý nghĩa địa điểm thần kinh mặt trời.
*Luân Xa 4 có ý nghĩa địa điểm thần kinh tim.
*Luân Xa 5 có ý nghĩa địa điểm thần kinh cổ.
*Luân Xa 6 ở giữa chân mày, có ý nghĩa bộ phận dưới vỏ não.
*Luân Xa 7 có ý nghĩa vỏ não.

D. Ý nghĩa của KUNDALINI (Hoả xả )
Tại sao lại tượng trưng bằng Hoả Xả nằm ngủ và cuốn quanh Luân Xa 1 (MULADHARA)?
*Luân Xa 1và 2(SVADHISTHANA) có liên quan đến KHẢ NĂNG TÌNH DỤC Mà bản năng sing dục là bản năng mạnh nhứt của con người, khiến người ta mê say mù quáng. Bình thường thì con rắn ngủ, nếu nó thức dậy, thì có thể phá phách lung tung, làm cho người tu học có thể sai lầm, bỏ đường tu luyện, chìm đắm trong sắc dục.
Tập luyện TU THIỀN đúng phép thì HOẢ XẢ thức dậy và đi lên, đồng thời không phá phách mà chịu sự hướng dẫn và điều khiển của các luân xa trên.
Tập luỵện không đúng phép, khí không thông, bị kẹt, bị hãm, các Luân xa trên không điều khiển được, thì bản năng mạnh nhất ấy sẽ làm đảo điên con người, có khi nguy hiểm.
Ý nghĩa cổ truyền là như thế, ta nên hiểu vấn đề như thế nào cho thực tế, Khoa học không bị ảnh hưởng vào tư tưởng thần bí, ý tưởng muốn trở thành THẦN, TIÊN, THÁNH, PHẬT,mà chúng ta chỉ có ý muốn trở thành con người thật sự mạnh khoẻ va Lương tâm đạo đức với Tình thương thật sự vì tất cả nhân loại.
7 luân xa là 7 địa điểm thần kinh chỉ huy hoạt động toàn cơ thể. Nếu kích thích thần kinh đó chạy tốt, thì khí huyết sẽ thông, con người thảnh thơi, trí óc sẽ minh mẫn, không có một chút gì bế tắc, thì chúng ta đạt tới không dám nói THIÊN NHĨ THÔNG…, mà chỉ đạt tới minh mẫn, sáng suốt, biết phân biệt điều phải lẽ trái, biết THƯƠNG mọi người, đó đã là mục đích rất quý rồi.
– Luân xa 1 và 2: tập cho tốt , tránh ứ trệ, sự hoạt động của nó và bộ phận sinh dục, kinh nguyệt, tiêu, tiểu, sẽ bớt được bao nhiêu bệnh di tinh, mộng tinh, kinh nguyệt không điều hoà và các bệnh tiêu, tiểu, táo bón, tiểu rát.
– LUÂN XA 3 điều khiển hoạt đọng bộ tiêu hoá, gan, lá lách, tuỵ tạng, bộ bài tiết, thận, tập cho tốt tăng cường sức mạnh dinh dưỡng của cơ thể.
– LUÂN XA 4 điều khiển hoạt động tim, đây là sức mạnh chính yếu trong cuộc sống, tập cho tốt sẽ tránh được các bệnh tim.
– LUÂN XA 5: điều khiển bộ phận hô hấp như mũi, phổi, cuống họng, da, tập cho tôt sẽ tránh được bệnh hô hấp, kể cả bệnh hen xuyễn.
– LUÂN XA 6 VÀ 7, 2 luân xa này là trung tâm cao nhất, sáng suốt nhất. Nói tóm lại 2 luân xa này điều khiển tất cả, duy trì nòi giống, ăn uống, bài tiết, sãn xuất ra tinh huyết, điều khiển tim, phổi và các hoạt đông về khí. Chúng ta tập luyện thế nào cho toàn bộ Luân xa không chỗ nào bị kẹt và kích thích THẦN KINH, KHÍ VÀ TINH HUYẾT thì cơ thể chúng ta từ trên xuống dưới sẽ tiến dần tới điểm cao nhất và minh mẫn, sáng suốt tới ĐẠI GIÁC.
Hoả xà, con rắn lửa, thật là một danh từ đầy ý nghĩa. Hoả xà đem lại sức mạnh cơ thể bản năng, luyện tập cho nó lên tới LX7 thì các Hỏa xà ấy sẽ làm bùng cháy TINH THẦN, làm cho nó sáng suốt, song tất cả phải được nuôi dưỡng bằng địa điểm LX3 thì mới có sức bền bỉ.
Danh từ XÀ chỉ rõ sự nguy hiểm của LX cần phải điều khiển thì mới tránh được hậu quả.
Chúng ta bắt đầu luận 7 LX như thế nào? Chúng ta phải hết sức kiên nhẫn tu luyện hàng ngày bằng cách tẩy trược cho cơ thể sạch sẽ nhẹ nhàng va tự khai tự giải bế tắc kinh mạch huyệt lạc, chừng đó chúng ta không còn lo ngại sự nguy hiểm mà Hoả Xà đi lên phá phách làm cho chúng ta chậm đường TU, mà trái lại Hoả xà phải hcịu sự điều khiển của chúng ta.

{tab=Phương pháp chữa}

Chữa Bệnh Bằng NĂNG LỰC VŨ TRỤ, SỨC MẠNH TƯ TƯỞNG – Thầy Vũ Bội Quang Khôi

Trên thế giới có nhiều phương pháp chữa bệnh – chữa bệnh bằng sức mạnh tư tưởng cũng là một trong những cách đó…
Từ 10 năm nay ở Hoa Kỳ , thầy Vũ Bội Quang Khôi đã áp dụng “Tâm pháp ” này để giúp cho hàng trăm người khỏi những bệnh nan y ( không cần dùng một viên thuốc ),hàng ngàn người tìm được An Vui trong đời sống( họ đã thay đổi cả tính tình)…
Họ đã hiểu được “Mình là ai? ” và ý nghĩa đích thực của cuộc đời mình là gì, để sống trong yêu thương – tha thứ,bớt đi những tham lam ích kỹ-hận thù…
Thầy Khôi đã dùng sức mạnh Tư Tưởng để chuyển đi cái năng lực tình thương của Vũ Trụ – của Đấng Sáng Tạo đến người bệnh ở bất cứ nơi nào trên thế giới , nếu họ có đủ niềm tin nơi thầy Khôi…

TÂM PHÁP

Mang lại Sức khoẻ – An – Vui trong Đời sống

Từ 10 năm nay ở Hoa Kỳ, thầy Vũ Bội Quang Khôi đã áp dụng “Tâm pháp” này đã giúp cho hàng trăm người khỏi những bệnh nan y( không cần dùng một viên thuốc), hàng ngàn người tìm được An – Vui rong đời sống ( họ đã thay d0ổi cả tính tình)…

Họ đã hiểu được “Mình là ai? và Ý nghĩa đích thực của cuộc đời là gì?”, để sống trong yêu thương – tha thứ, bớt đi những tham la ích kỹ, hân thù.

Thầy Khôi đã dùng sức mạnh tư tưởng để “chuyển đi” cái năng lực Tâm Linh – cái năng lực Tình Thương của Vũ Trụ-của Đấng Sáng Tạo đến người bệnh ở bất cứ nơi nào trên thế giới, nếu họ có đủ niềm tin nơi thầy Khôi.

Từ ngàn xưa tới nay, trong các kinh sách, đã từng ghi các lời dạy của các vị thầy, các vị giáo chủ như:

_ Sức mạnh Tư Tưởng có thể tạo ra tất cả ( Ấn Độ giáo)
_ Tâm sanh vạn pháp sanh ( Phật giáo)
_ Chỉ cần đức tin bằng hạt cải cũng đủ dời non lấp biển (Thiên chúa giáo)
_ Người có quyền năng của Vũ Trụ trên đầu lưỡi của người( Chân sư Yogi)

Và ngày nay nhiều vị thầy đã hiểu được quyền năng vô biên của tư tưởng, khoa học đã chứng minh sức mạnh tư tưởng là “cái lực” (force),có năng lượng(energy), có màu sắc( colors), có sự rung động( vibration) và có thể gởi đi khắp nơi trong vũ trụ, không một trở lực nào có thể ngăn cản được sức mạnh tư tưởng này.

Trong tủ sách về “huyền học” có nói về một số các vị Đạo Sư Ấn Độ và Tây Tạng đã sử dụng pháp môn này để chữa bệnh và làm nhiều ‘phép lạ” (trước đây người ta gọi là phép lạ, vì chưa có sự hiểu biết, cho nó là thần-thánh-trời-phật ban cho mới làm được).Nếu ta hiểu được sức mạnh tập trung của tư tưởng, hiểu được một số các định luật của vũ trụ & con người, ta có thể sử dụng được cái năng lực vô biên này.Không những để chữa bệnh mà còn làm được nhiều chuyện phi thường khác nữa. Quí vị sẽ được coi tài liệu “Những người có khả năng siêu phàm” trong website này và hàng chục “những sự huyền nhiệm” khác mà thầy Khôi đã làm trong những năm qua( tất cả đều có bằng chứng, cứ không vu vơ – bắt người ta phải tin, như nột số các phép lạ khác…!)

Bây giờ là thời buổi của khoa học thực nghiệm – là thời của sự thực, không phải của những sự mê tín.Chỉ có sự thực mới giải phóng con người khỏi u mê tối tăm từ hàng ngàn năm nay.Nó đã làm chậm bước tiến của nhân loại địa cầu này – vì còn nhiều những nền văn minh cao khác trong vũ trụ, trong các giải ngân hà khác…(xin đọc cuốn COSMIC JOURNEYS My out of body Explorations with Robert A Monroe của tác giả Rosalnid A.McKight), trong cuốn sách này quí vị sẽ thấy bằng một phương pháp vừa khoa học, vừa tâm linh.Tác giả được đưa vào nằm trong một phòng thí nghiệm, với những dòng điện nối vào những yếu huyệt trong người, và tai được nghe như “siêu âm thanh tác động vào hệ thần kinh…

Và với sự điều khiển của khoa học gia Robert Monroe, hồn bà Rosalind đã xuất ra khỏi thân xác và du hành vào những thế giới khác ( dimension), hay “cảnh giới” khác của vũ trụ!Hồn bà được những người vô hình hướng dẫn đi khắp các cõi giới và đến tận những giải ngân hà xa xôi, vào thăm trong những phi thuyền không gian (space ship), gặp những sinh thể người ngoài hành tinh có nền văn minh rất cao trong vũ trụ (họ nói chuyện với nhau hoàn toàn bằng tư tưởng, không có tiếng nói, nên miệng họ rất bé nhỏ như một làn chỉ, và tai họ cũng vậy.Họ không còn phân biệt là người nam hay nữ nữa, mà là chung tính…Họ đã hợp nhất làm một với năng lượng thuần khiết của Vũ Trụ hay Thượng Đế ).

Đầu năm 2007 tại Hoa Kỳ đã có một hội nghị quốc tế của nhiều khoa học gia và khoảng hơn 300 nhân chứng đã tận mắt nhìn thấy hay đã vào phi thuyền không gian(UFO) và gặp những người ngoài vũ trụ.Trong những năm sắp tới đây sẽ còn nhiều những biến cố quan trọng vừa tốt vừa xấu cho nhân loại địa cầu này, để giúp con người nâng cao tâm thức lên cho kịp với sự tiến hóa của vũ trụ.Vì vạn vật trong vũ trụ đều liên kết trách nhiệm với nhau, không gì là riêng rẽ được …!

Trong 5 năm qua, thầy Khôi đã chữa bệnh trên nhiều đài phát thanh ở Orange County, thuộc tiểu bang California, bên Mỹ. Những người bệnh gọi từ các tiểu bang khác, và nhiều nước khác nhau trên thế giới, có những người đã gọi từ Việt Nam, và họ đã được chữa lành (xin coi tài liệu).Trong giờ chữa bệnh trên radio, những người có đủ niềm tin và nhạy cảm đã nhận được nguồn năng lượng tâm linh từ thầy Khôi truyền sang, họ thấy như những luồng điện, những hơi nóng hay những sự rung động trong cơ thể họ, hay cảm thấy an vui, thoải mái, ngay sau đó người bệnh thấy đỡ ngay

Nhiều người Mỹ cũng đã cảm nhận sự diệu kỳ này, có ngừoi chỉ cần nhắm mắt nghĩ tới năng lượng củathầy Khôi truyền đến cũng nhận được, họ đã gọi vào đài phát thanh và nói lên những cảm nhận kỳ diệu này…(tất cả những trường hợp chữa đều có tài liệu dẫn chứng một cách khoa học.

Với pháp môn chữa bệnh này, không cần dùng một viên thuốc nào hết, ngoài những lúc nghe giờ chữa bệnh trên đài páht thanh, hay trực tiếp gặp thầy Khôi, họ phải thực hành ở nhà với những tài liệu (coi video, nghe Cd và đọc các tài liệu để tự chữa bệnh ở nhà).Một sự hết sức huyền nhiệm là: tâhỳ Khôi đã dùng sức mạnh tinh thần để truyền những năng lượng vào những tài liệu đó. Có người khi nhận được tài liệu mở ra coi, đã cảm thấy luòng điện chạy vào trong người, có người khi nghe cái Cd đã ngửi thấy mùi hương tâm linh, có người khi coi DVD đã cảm thấy nguồn tiên thiên khí truyền vào cơ thể họ và ngay sau đó họ thấy nhẹ nhàng – vui sướng vì bệnh đã bớt một phần.

Tâm pháp có thể chữa nhiều bệnh, cả về tâm – thân và nghiệp bệnh ( ngay cả những bệnh về tà ma – tù ếm hay hồn người chết nhập vào, họ cũng đến nhờ chữa trị có video thâu những người này, khi đến chữa họ có những động tác kỳ dị hay la khóc, lăn lộn dưới đất. Có những hồn người chết nhập vào người bệnh nói cuyện thẳng với thầy Khôi và xin được siêu thoát, có người thấy hồn người nhập bay ra ngoài. Nếu không có tài liệu chắc ít ai tin được chuyện này.! )

Có những người bị ung thư ở giai đọan cuối đã được khỏi, các bác sĩ đã đầu hàng cho về nhà thờ như cô Bùi Thu Thủy ở Việt Nam. Có những người bị đứt gân máu ngồi xe lăn đã đứng dậy đi được như ông Trọng. Có người điếc đã đi được như chị Ngà, bà Diệp. Có những người bị đau cột xương sống kinh niên và tay chân đau nhức đã được khỏi. Có những bệnh nan y như cao máu và lục phủ ngũ tạng cũng đã được chữa lành, nhiều người bị mất ngủ kinh niên, tinh thần suy sụp, lo lắng, chán nản, họ đã tìm được giấc ngủ thoải mái và sự bình an của tâm hồn !

Ngoài ra còn có những hiện tượng kỳ lạ như ông Ninh bị đứt gân máu đã được chữa lành và nốt ruồi to bằng hạt đậu đen đã phải nhạt đi. Vết nám trên mặt đã nhạt đi và lặn xuống, da mặt đã hồng hào tươi trẻ lại, đó là trường hợp chị Hải ỡ Los Angeles. chị nói:” bạn bè gặp ở nhà thờ tưởng e đi lột da mặt ở mỹ viện về” ( có video thâu những trường hợp này).

Và còn có những sự huyền nhiệm khác nữa với những người có đủ niềm tin chân thành khi họ ở nhà thực hành pháp môn này, họ kêu gọi đến năng lượng tâm linh của thầy Khôi đến giúp, ngay sau đó họ nhận được nguồn năng lượng chạy vào trong người như luồng khí nóng, hay dòng điện, hay rung chuyển trong thân xác và tâm hồn, họ thấy đầy sinh lực và hành phúc.

Có người khi nhắm mắt còn thấy những ánh sáng nhiều màu sắc trước mặt hay lâng lâng như ở cõi trên, có người còn thấy cả linh ảnh của thầy Khôi hiện ra trước mặt, đây là cái hình ảnh tâm linh của thể hồn ( họ đã gọi vào trong giờ chữa bệnh trên radio của thầy Khôi nói lên những huyền nhiệm này, mà trước đây người ta đã gọi là phép lạ. Đó chính là do đức tin của họ tạo ra những hình ảnh tâm linh đó). Có người khi ngồi thiền tâm linh vói thầy Khôi đã thấy được quá khứ và nhìn được tương lai như Michael M, Peter ,Trí…

Thầy Khôi cho biết ” Ta không chỉ là cái thân thể chất, mà có 5 thể trong con người thật – trongcái ngã của chúng ta. Đó là thể thân xác, thể siêu trần, thể tình cảm, thể hồn và thể tinh thần, và có bảy tầng năng lượng – liên hệ tới bảy luân xa trong mỗi thể ấy…

Lối chữa bệnh này theo thầy Kôi cho biết là dùng cái sức mạnh tư tưởng để gửi đi cái năng lực tình thương – Love energy đến người bệnh, nếu họ có đủ niềm tin và tâm lành, họ sẽ nhận được. Có người nhận được nhanh, có người chậm, cũng có những người không được khỏi, nó cũng tùy thuộc vào căn cơ – nghiệp bệnh của họ nữa…

Thầy Khôi nói: ” Tôi giúp quí vị có 50 %, phần còn lại quí vị phải tự giúp mình bằng cách theo đúng những lời hướng dẫn và sống trong thanh tịnh yêu thương, phần lớn những người được khỏi bệnh, họ đều thay đổi cả tính tình, bớt đi những tham lam thù hận, bớt đi tính tình nóng giận. Họ sống an vui hơn và biết mở tâm với mọi người !

Nhờ những đau khổ vì bệnh tật và những bất hạnh trong đời sống, nó sẽ giúp chúng ta có thời giờ để suy nghĩ về “Ý nghĩa đích thực cuộc đời là gì!”, và biết được “Ta là ai!”. Còn nếu sống trong sự đầy đủ và thành công, ta sẽ mãi mê hưởng thụ đời sống vật chất đâu còn thì giờ để suy ngẫm nữa. Vì thế: ” Bệnh tật và sự bất hạnh là những ân nhân của ta” vì ta đâu chỉ là cái thân thể chất mà còn là cái hồn và cái tinh thần bất diệt nữa. Ta mượn thân xác mỗi kiếp để đóng một vai trò, để linh hồn ta kinh nghiệm một số khía cạnh, mà nó mới biết được bằng ý niệm. Đây là một sự tiến hóa lâu dài của linh hồn trong sự thành tựu bản ngã trên tiến trình trở về con nguời đích thực của mình – trở thành năng lượng thuần khiết của vũ trụ – hợp nhất làm một với đấng sáng tạo hay thượng đế! Những gì tôi làm, quí vị cũng có thể làm và còn có thể làm hơn thế nữa. Nếu biết được mình là ai!, và hiểu được một số những định luật của vũ trụ!

Chúng ta hãy sống trong thanh tịnh và yêu thương, cuộc đời sẽ không còn là những bài toán khó khăn- đấu tranh nữa

Chỉ có năng lực tình thương mới có thể hàn gắn những nỗi đau thương của nhân loại – mới có thể mang lại những an vui – hạnh phúc đích thực cho con người…

Quyền Năng Tư Tưởng

Thế giới ngày nay như thế nào là do con người tạo dựng nên.Nó là phản ảnh những tư tưởng – lời nói và việc làm của chúng ta.Với cá nhân mỗi con người cũng vậy , mình sống như thế nào , thì kết quả sẽ như vậy, không có “đấng” nào “thưởng” hay “phạt” chúng cả. Vì đó là luật của Vũ Trụ – Luật Trời…

Thế giới ngày nay như thế nào là do con người tạo dựng nên nó.Nó là phàn ảnh những tư tưởng – lời nói và việc làm của chúng ta. Với cá nhân mỗi con người cũng vậy, mình sống như thế nào, thì kết quả sẽ như vậy, không có ” đấng ” nào ” thưởng hay “phạt ” chúng ta, vì đó là luật của Vũ Trụ- Luật Trời.
Con người không hẳn chỉ là hèn kém ( nếu sống bằng cái phàm ngã) mà còn là minh triết và quyền năng nữa ( nếu sống bằng cái chân ngã – con người thực – thượng đế tính.
Bây giờ là thời của sự thật, của “Tâm Thức” nhân loại mới, chỉ có sự thực mới giải phóng được con người khỏi u mê – tối tăm bấy lâu nay. Pháp môn chữa bệnh bằng năng lực Tư Tưởng này được phổ biến rộng rãi để góp phần vào sự tiến hóa chung của nhân loại trong kỷ nguyên mới. Từ chục ngàn năm trước nó đã được các vị Thầy ứng dụng tùy theo cơ duyên để giúp đời, nó có thể chữa lành cả thân- tâm và nghiệp bệnh và có thể làm thay đổi cả cuộc đời con người. Nhưng với tính cách bí truyền và với sự thờ ơ của nhân loại, pháp môn chữa bệnh này đã bị mai một theo thời gian).
Trong tương lai, lối chữa bệnh này đã được áp dụng rộng rãi, khi Tâm Thức con người đã được khai mở, không còn bị những thành kiến hẹp hòi – những giáo điều huyền hoặcngăn cản nữa.
Chúng ta không phải chỉ là cái thân thể chất, mà còn là cái hồn bất diệt và cái tinh thần quyền năng vô biên nữa.
Tại sao người bệnh lại thực hành các tài liệu này ở nhà một mình lại có thể được chữa lành?
Vì thầy Khôi đã dùng đã dùng quyền năng tư tưởng để truyền cái cái năng lực của Vũ Trụ sang những tài liệu đó!
Vì thế nhiều người khi ngồi “thiền ” để tự chữa bệnh ở nhà( tuy ngồi giống như thiền nhưng đây không phải lối thiền như những pháp môn khác, chỉ có phương pháp thiền tâm linh này của thầy Khôi, người bệnh mới cảm nhận sự huyền nhiệm trong thân xác và linh hồn. Họ đã nhận được nhiều năng lực trong tâm và thân họ, như thấy những luồng điện – hơi nóng – sự rung động trong cơ thể, có người mắt nhắm thấy ánh sáng nhiều màu sắc trước trán ( con mắt thứ 3 ), có người thấy hồn phiêu du trong những cảnh giới khác (dimensons), có người đọc ược tư tưởng người khác, hay thấy được quá khứ và tương lai. Có người không có những cảm nhận nơi tâhn xác nhưng họ nhận được nguồn năng yêu thương – an vui thấy người khỏe lên ngay sau đó ( mỗi người có những cảm nhận khác nhau, tùy teo căn cơ nghiệp bệnh, niềm tin và sự nhạy cảm của họ). Cũng có những người lúc chữa bệnh thấy đau nhức nhiều hơn, nhất là ở những nơi đang bị đau, đó là nguồn năng lượng đang thanh lọc cơ thể và sau đó sẽ thấy bệnh bớt ngay. Bệnh tật là do sự mất quân bình trong cơ thể mà ra, vì rất nhiều nguyên nhân, có thể do ăn uống không đúng cách, sống trái với tự nhiên. Buồn rầu, lo lắng, tức giận sợ hãi, ganh ghét, tâm bất an, lâu ngày cũng sinh ra bệnh hoặc có thể là nghiệp bệnh, do những việc làm từ nhiều kiếp trước, hay bệnh vì tà ma – thù ếm. Họ có những động tác múa may hay lăn lộn, la khóc khi ngồi chữa bệnh với thầy Khôi( có video thâu những trường hợp đặc biệt này)
Có người khi mở tài liệu ra đọc hay nghe Cd hay xem DVD đã ngửi thấy mùi hương Tâm Linh và nguồn năng lượng truyền vào người, và sau đó họ thấy an vui khỏe mạnh, cũng có những người sau một thời gian thực hành đã thay đổi cả tính tình, không còn nóng giận khó tính như trước, họ sống an vui và biết sống mở tâm ra hơn với mọi người. Có người sau hơn 2-3 ngày bệnh đã bớt nhiều, có người phải lâu hơn, nhanh hay chậm là do niềm tin và có theo đúng cách hướng dẫn không?
Và còn nhiều chuyện lạ nữa như: có người sau giờ chữa bệnh trên radio một thời gian đã được chữa khỏi đau lưng kinh niên và vết nám trên mặt đã phai nhạt đi, và da mặt đã trở nên hồng hào, mịn màng, trông trẻ đi như đi thẩm mỹ viện sữa sắc đẹp về ( chị Hải ở Losangeles ). Hay sau khi khỏi méo miệng và đi đứng vững vàng vì bị đứt gân mạch náu não, ông thấy nốt mụn rùi đen to hơn hạt đậu đen đã xẹp xuống và lợt đi( ông Ninh ở Reseda ).Có người điếc đã nghe được như bà Diệu, chị Ngà ( Texas). Hay ông Trọng đang ngồi xe lăn vì bị đứt gân máu, khi nghe thầy Khôi chữa bệnh trên radio nói hãy đứng dậy và ông đã tự mình đứng dậy đi vòng vòng trong nhà trước sự vô cùng ngạc nhiên của hàng trục ngàn thính giả ở khắp nơi. Có người khi nhắm mắt khi nghe chữa bệnh đã thấy linh ảnh, hình thầy Khôi hiện ra trước mắt như bà Hòa ở LA hay chị Giọt ở Georgia và còn nhiều chuyện lạ lùng nữa mà chính người ta nếu không nhìn thấy hay nghe thấy chắc không bao giờ tin được, nhưng may mắn thay tất cả những chuyện này đều có bằng chứng, quí vị có thể đặt mua những video tài liệu nếu muốn.
Nếu ta hiểu được mình không chỉ là cái thân xác,thì bệnh hoạn hay tai ương đến với ta nó có một ý nghĩa ‘nhắc nhở’ta một điều gì đó,mà từ lâu vì mãi mê trong đời sống loạn động này,trong sự thành công vật chấ,ta đã đánh mất con người tâm linh-đích thực của mình.Nay nhờ những đau khổ này, ta mới có dịp để suy nghĩ lại về ý nghĩa đích thực cuột đời là gì,và ta là Ai?Nhờ đó ta sẽ biết ‘chấp nhận’ hơn, có được sự ‘hiểu biết’ hơn và sẽ sống một đời sống ý nghĩa hơn..Vì thế ta sẽ biết cám ơn những bệnh tật-tai họa đó,ta sẽ hiểu được tại sao có câu:”Đau mà không Khổ”…!Lối chữa bệnh này rất huyền nhiệm nhưng không huyền hoặc,vì nó là ‘sự thực’ có thể chứng minh được.
Thầy Khôi cho biết”những gì tôi làm được,mọi người cũng có thể làm và còn làm hơn thế nữa nếu.Tất cả những quyền năng tư tưởng đó chúng ta đều có ở ‘bên trong’,hãy tìm về con người đích thực của mình-tìm về cái Chan ngã,cai Thượng đế tính trong ta,và quyế tam tu luyện trong sụ hiểu biết những định luật của con Người và Vũ trụ,ta sẽ có tất cả-dó là đạo tâm-đạo trời(tu luyện ở đây có ngiã là tu tâm-sửa trí,sừa đổi những sai lầm rồi thực hành những điều tốt lành,không cần phải ăn chay-cầu nguyện-ép xác-diệt dục như các tôn giáo…)Tất cả vạn vật trong vũ trụ này la do nơi Tâm- Trí con người sáng tạo ra!Phương thức tu-luyện tâm linh này rất kỳ diệu,nó giúp ta hướng về Chân-Thiện-Mỹ của vũ trụ,hướng về cái”Một”.Sự hiểu biết chân thật về ta là Ai,sẽ mang đến quyền năng và hạnh phúc.!”
Lịch sử từ ngàn xưa tới nay, trên thế giới đã có nhiều vị Thầy sở đắc được những quyền năng siêu phàm trong nhiều lĩnh vực khác nhau, riêng ở Việt Nam cũng có nhiều người có khẳ năng siêu phàm này, những khả năng tiềm ẩn như những nhà ngoại cảm liên lạc với cõi giới vô hình với hồn người chết, hay có khả năng thấu thị, nhìn xuyên qua lòng đất, thấy mộ người chết bị thất lạc hay những vị thầy chữa bệnh bằng năng lực tâm linh!
Trước đây hàng chục thế kỷ, khi con người còn thiếu hiểu biết, những sự kiện này được gọi là phép lạ, chỉ có một số thần thánh hay các vị giáo chủ mới có thể làm được. Nhưng ngày nay với sự hiểu biết, tâm trí con người địa cầu này đã được khai mở thì đó là cái năng lực tâm linh có sẵn bên trong mỗi chúng ta. Và còn rất nhiều những chuyện lạ khác đang xảy ra xung quanh chúng ta, điều quan trọng là phải biết dẹp bỏ những thành kiến di truyền từ hàng ngàn năm trước và những giáo điều huyền hoặc từ ngàn xưa, nó đã làm chậm biết tiến hóa của nhân loại địa cầu này, khiến chúng ta không theo kịp đà tiến hóa chung của những nền văn minh cao khác trong vũ trụ.
Xin đọc cuốn COSMIC JOURNEY của Roselind A.McKight, tâm trí quí vị sẽ được mở rộng tới tận những chiều không gian khác ( cảnh giới khác- dimensons) trong vũ trụ, nó đưa người đọc tới những nền văn minh siêu đẳng của các sinh thể trong các giải ngân hà xa xôi, cách xa chúng ta hàng triệu năm ánh sáng, sẽ đưa chúng ta vào thăm những phi thuyền không gian UFO và gặp những con người không gian này ( Alien), họ nói chuyện với chúng ta hoàn toàn bằng sức mạnh tư tưởng, họ không cần dùng tiếng nói như người địa cầu (miệng họ rất nhỏ như một đường kẻ, tai họ cũng bé như đầu đũa, họ ăn uống bằng những năng lượng hay tiên thiên khí, âm thanh của họ như tiếng nhạc và có màu sắc) trong những thập kỷ tới chúng ta sẽ được tiếp xúc với họ, khi chúng ta có được sự hiểu biết và không sợ hãi. Tuy nhiên, họ đã từng tiếp xúc với một số ít người địa cầu này từ lâu rồi. Tất cả những phát minh khoa học tân tiến nhất trong những lĩnh vực quan trọng của đời sống là do sự gợi ý của họ. Một số ít người tiến hóa cao đó đang sống trong chúng ta, để hướng dẫn những đứa em non dại đại cầu này biết sống trong an vui và yêu thương hơn… Đầu năm 2007, tại Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ đã có một hội nghị quan trọng về những người không gian này đến thăm hành tinh ” bé nhỏ ” và lạc hậu của chúng ta, với sự tham dự của hàng trăm nhà khoa học gia nổi tiếng và mấy trăm nhân chứng đã có dịp được nhìn thấy hay gặp mặt những người không gian này. Những nhân chứng này có nhiều người là phi hành gia không gian, các phi công phản lực và đủ mọi loại người ở nhiều nơi đã có cái may mắn được gặp những người không gian này (alien) hay lên tận phi thuyền của họ.
Đây là sự kiện không thể chối cải được, chúng ta không phải là những con người duy nhất sống trên vũ trụ này, đã có hàng ngàn những con người – sinh thể khác với nền văn minh tiến hóa rất cao vượt xa chúng ta trong các giải ngân hà xa xôi.
Trong thế kỷ tới, con người này sẽ sống trong những thành phố dưới biển, họ sẽ đi du lịch thăm những hành tinh khác trong vũ trụ bằng những phi thuyền không gian như chúng ta đi máy bay bây giờ. Trái đất sẽ trở thành một nơi thăm viếng của nhiều giống dân khác trong các giải ngân hà ngoài vòng thái dương hệ của chúng ta và ngôn ngữ chính dùng để liên lạc là bằng Tư Tưởng , chứ không dùng tiến nói nữa. Họ đọc được tư tưởng của nhau, nên không có gì che dấu hết! Nhân loại địa cầu sẽ sống trong một thân xác khỏe mạnh và tuổi thọ tăng đến 1-2 trăm tuổi hay hơn nữa. Họ đã biết trước khi họ cần dời bỏ cái thân thể chất này chết để trở lại cái thân thể xác hữu dụng hơn. Vì họ hiểu mình không phải chỉ là cái thân thể chất mà còn là cái hồn bất diệt và cái tinh thần vô biên nữa!
Thầy Khôi nói :” SỰ CHÂN HIỂU BIẾT = QUYỀN NĂNG = HẠNH PHÚC.Tất cả những sự hiểu biết mới này sẽ phá tan những huyền hoặc mê tín bấy lâu nay, nó đã làm chậm bước tiến của nhân loại địa cầu này. Cũng vậy, lối chữa bệnh bằng sức mạnh tư tưởng này sẽ áp dụng rộng rãi trong những thế kỷ tới, khi đầu óc con người đã được khai mở, khôpng còn những hẹn hẹp như bây giờ nữa.
Lúc đó mọi người sẽ sống trong yêu thương-hạnh phúc..không còn tham lam-hận thù,vì họ biết,họ có thẻ sở hữu tất cả,chảng cần phải tranh giành với nhau nữa,họ có thể trở lại với thân thể chất này bao nhiêu lần cũng được nếu họ muốn,để kinh nghiệm những điều mà họ đã biết trong ý niệm(trong siêu thức của cái Chân ngã hay Thượng đế tinh.)Vì họ là ‘Một’ với năng lực Sáng tạo của Vũ trụ hay Thượng đế.Họ đã hiểu Ý Nghĩa Đích Thực Cuộc Đời Là Gì?Và biết được Mình Là Ai?Và lúc đó nơi đây biến thànhThiên Đường tại thế,mong lắm thay..!

Tác dụng của Nhân Điện lên chức năng Hệ thống nội tiết

Luân Xa và cơ thể vật chất :
Luân Xa là những trung tâm năng lượng và là máy biến điện chuyển hóa nối liền con người và Vũ Trụ. Đó là những trung tâm của sinh khí lực rất tinh vi, gọi là năng lượng tinh vi. Luân xa thu hút năng lượng tinh vi và phân phối đến các tuyến chủ yếu, các trung tâm thần kinh và các cơ quan của cơ thể. Cơ thể con người được xem như một dụng cụ hoàn hảo nhất cho sự biểu lộ của ý thức. Sự hoàn hảo được thực hiện qua sự phát triển của những trung tâm tâm thần, những luân xa.
tuyen yen va tuyen tung

Luân xa liên hệ đến mọi tính độ của con người, và có những cấu trúc tựa như cái van, có thể được mở hoặc đóng tuỳ theo trình độ phát triển tâm linh của một người. Điều này xác định những trình độ năng lượng được thu hút vào luân xa. Vì phần đông năng lượng thu nhận được là dưới vật chất tâm lý, nên cơ chế luân xa bảo đảm là chúng ta chỉ ý thức được những năng lượng thu nhận vào với trình độ năng lượng mà chúng ta có. Nằm trong hệ thống não tủy sống, luân xa là giai đọan, nơi có sự tác động lẫn nhau, giữa ý thức cao hơn và sự ham muốn. Vì lý do đó, nên qua sự hiểu biết và việc sử dụng những năng lượng của luân xa mà cuối cùng chúng ta đạt đến được một trạng thái giải thoát.
Mỗi luân xa liên quan đến một hệ thống vật chất nào đó và những bộ phận liên hệ. Có một mối liên hệ trực tiếp giữa điều kiện của luân xa và những bộ phận liên hệ. Luân xa có thể có nhiều sinh khí, hoặc ít sinh khí hoặc ở trạng thái quân bình. Luân xa có thể được khai mở hoặc bị nghẽn. Những triệu chứng trên cơ thể sẽ được phản chiếu qua sự loạn chức năng trong hệ thống năng lượng liên hệ và qua ngay chính cả luân xa. Tạo ra sự thay đổi để phục hồi hệ thống năng lượng liên hệ đến một trạng thái quân bình sẽ tạo được sự thay đổi về phương diện cơ thể.Chức năng và sự quan trọng của tuyến tùng và tuyến yên trong hệ thống nội tiết:
Những tuyến nội tiết giữ một vai trò quan trọng trong sức khỏe hàng ngày và sự thoải mái trong cơ thể. Những chất nội tiết được tiết ra trực tiếp trong những mạch máu bởi những tuyến điều khiển sự tăng trưởng trên mọi mặt, sự phát triển và sự hoạt động về thể xác hằng ngày. Sự loạn chức năng gây ra do bất cứ tuyến nội tiết nào sẽ đưa đến những hậu quả nghiêm trọng về thể xác. Sự hoạt động bất bình thường về cơ thể là một kết qủa của sự suy nhược chất chứa trong hệ thống năng lượng của những dòng năng lượng và những luân xa.
Tuyến tùng : là một khối mô cỡ hạt đậu, hình dạng như trái tùng, có cuống nối với thành sau của não thất thứ ba, nằm sau giữa các bán não ở phía sau hộp sọ. Tuyến này có nhiều chức năng về nội tiết tố trong cơ thể. Chỉ mới gần đây các nhà khoa học khám phá ra vai trò mà tuyến này giữ trong qúa trình hóa già.
Tuyến yên : là tuyến nội tiết chủ đạo, một thể hình hạt đậu gắn phía dưới đồi trong một xoang xương ở đáy hộp sọ. Qua sự tác động lẫn nhau của những tuyến khác nhau trong cơ thể, tuyến tùng giữ vai trò trong căn bệnh suy hóa và sự hóa già, đồng thời ghi nhận những thói quen về giấc ngủ. Tuyến yên điều chỉnh những chức năng của các tuyến nội tiết khác qua những cơ chế ức chế. Áp huyết, nhiệt độ cơ thể, chức năng về sự tăng trưởng động cơ, hệ thống sinh sản, điều hòa nhịp tim. Tuyến Tùng đã dược xem như một cơ quan thô sơ và không có một vai trò nào trong sinh lý học của con người. Tuy vậy, ngày nay người ta được biết là Tuyến Tùng ít ra cũng điều khiển một phần những chức về cơ thể sau đây: sự chuyển vận calcium vào tất cả các tế bào, và ra khỏi các tế bào, sự chuyển hóa hidrat cacbon ( carbonhydrate), sự sản xuất catecholamine, sự sản xuất tế bào, sự tổng hợp chất tạo keo ( collagen), sự tổng hợp DNA, tính hoạt động chất men ( enzyme), sự sản sinh tế bào bạch huyết.
Tuyến Tùng được điều chỉnh bởi ánh sáng Mặt Trời, một trong những yếu tố cấu trúc quan trọng của Năng Lượng Vũ Trụ (NLVT), và bởi những phía từ trường, giữ một vai trò toàn bộ trong những chu kỳ của cơ thể, điều khiển tác động của sự chuyển hóa và chức năng thuộc sinh lý học. Tuyến Tùng và Tuyến Yên có một mối liên hệ mật thiết với nhau và có tác dụng trực tiếp trên những tuyến thượng thận, khi cơ thể bị ứng suất hoặc bị đe dọa. Tuyến Yên có một tác động ức chế Tuyến Giáp Trạng. Tuyến Tùng rất quan trọng trong những chức năng nội tiết của tuyến ức. Tác dụng của Tuyến Tùng trên tuyến cận giáp và trên sự chuyển hóa calcium chưa được thông hiểu.
Vì những phân tử lớn và độc có thể vào đến Tuyến Tùng, nên chúng là một đe dọa ngầm. Hàng rào máu ngăn chặn những độc phẩm để chúng không hại đến những bộ phận khác trong cơ não. Những chất độc nguy hiểm, những gốc tự do, và vi trùng đưa vào qua Tuyến Tùng tạo thay đổi nơi những tuyến khác và có thể gây những tăng trưởng bất bình thường như những tế bào ung thư hoặc sự thoái hóa, như nơi bệnh xơ cứng động mạch nhỏ.Một vài bệnh suy hóa riêng biệt về sự hóa già là: bệnh Alzeimer ( mất trí nhớ ), bệnh xơ cứng động mạch nhỏ, bệnh viêm khớp, ung thư, tiểu đường, dứt kinh, loãng xương, bệnh Parkinson( chân và tay run). Bất cứ lý thuyết nào về sự hóa già đều phải có Tuyến Tùng trong đó, tuyến này giữ một vai trò trội. Theo sự nghiên cứu của Bradford, nếu cho động vật uống chất tiết ra từ Tuyến Tùng, có thể tăng thời gian sống của chúng đến 25%. Quá nhiều ứng suất và thiếu chất bổ dưỡng có thể làm giảm rõ ràng khả năng chức năng của Tuyến Tùng. Sự thiếu vitamin A gây thiệt hại một cách đặc biệt. Bệnh suy hóa và hóa già là kết qủa của sự giảm bớt nơi trình độ dưỡng khí khi những vi trùng và chất độc bao quanh hoặc đi vào Tuyến Tùng và Tuyến Yên. Năng Lượng Vũ Trụ hoạt động qua Tuyến Tùng, Tuyến Yên và hạ khâu não ( hypothalamus):
Một phần của bí mật sự hóa già và sự trẻ mãi không già nằm trong mối liên hệ giữa ba phần vật thể này. Theo nghiên cứu của Bradford, những khảo cứu cho thấy là hạ khâu não (hypothalamus) là vị trí đầu tiên đảm trách cho sự hóa già. Hạ khâu não điều chỉnh những phản ứng tự động, những phản ứng không cần sự cố gắng của ý thức, như sự tiết của nội tiết và chất men(enzymen), sự điều chỉnh chất lỏng, những bản mẫu giấc ngủ, những co thắt của tim, sự điều khiển nhiệt độ, và sự đổ mồ hôi. Chính hạ khâu não phối hợp những hoạt động của hệ thống nội tiết. Do đó, chúng ta nên cố gắng kích hoạt những tuyến nội tiết càng thường xuyên càng tốt, để dòng chuyển lưu của NLVT đạt được đến Tuyến Tùng và Tuyến Yên.
Sự liên hệ giữa Tuyến Tùng, Tuyến Yên với Luân xa 7 và Luân xa 6:
Luân xa hoạt động như những máy biến hóa năng lực từ một trình độ này đến trình độ khác, phân phát NLVT ( năng lượng Pranic) cho cơ thể vật chất. Mỗi một luân xa cũng liên hệ đến một tuyến chính.
Luân xa 7 : Được liên kết với họat động của vỏ não và chức năng của hệ thống thần kinh chính. Thêm vào đó, sự khai thông luân xa 7 ảnh hưởng đến sự đồng bộ hóa của bán cầu não trái và bán cầu não phải. Để cho luân xa 7 được hoàn toàn thức tỉnh, chúng ta phải có trước tiên một sự quân bình của cơ thể, tinh thần và tâm trí. Nơi một người có luân xa 7 được khai mở, luân xa này tượng trưng cho tính phân cực của năng lượng giữa Tuyến Tùng với bán cầu não phải và trái. Những bất bình thường trong sự chuyển lưu của năng lương ở trình độ luân xa 7 có thể được biểu lộ như nhiều loại loạn chức não, kể cả chứng loạn tinh thần.
Luân 6 : được nói đến như là “con mắt thứ ba “. Khi luân xa 7 được khai thông. Luân xa 6 được tượng trưng cho tính phân cực của năng lượng giữa Tuyến Yên và Tuyến Tùng. Khi Luân xa 7 chưa được khai mở, Luân xa 6 tượng trưng Tuyến Yên và hành tủy ( Meldulla oblongata), một phần của cuống não.
Do đó về mặt cơ thể, Luân xa 6 được kết hợp với Tuyến Tùng, Tuyến Yên, và dây xương sống, cũng như mắt, tai, mũi và xoang. Những khó khăn kết hợp với tắc nghẽn về năng lượng nơi Luân xa 6 có thể biểu lộ trên mặt cơ thể qua sự bất quân bình của những tuyến nội tiết chính, vì sự kết hợp của trung tâm này với Tuyến Yên. Cách chữa bệnh theo Tâm linh hoặc bằng NLVT là một nghệ thuật xưa được áp dụng từ hàng ngàn năm nay trong nhiều văn hóa khác nhau. Vì tất cả trong Vũ Trụ đều được tạo thành bằng năng lượng, trị bệnh bằng năng lượng có những hiệu quả sâu xa. Chúng ta có thể điều chuyển năng lượng để trị bệnh, đó là lúc cơ thể chúng ta là một phương tiện cho năng lượng chuyển lưu. Năng lượng này có tác dụng thải bớt những ứng suất và những chấn thương xúc cảm cầm giữ từ lâu, vì đó là gốc rễ của bệnh tật. Qua sự kích họat của Năng Lượng Vũ Trụ hai Tuyến Yên, Tuyến Tùng được điều hòa chức năng, khoa học sinh vật hiện đại giải thích điều này như một sự trao đổi hóa học tiết ra bởi những tuyến nội tiết.
Về phương diện Tâm linh, NLVT họat hóa những trung tâm biến đổi năng lượng ( Luân xa) và nâng cao sự hiểu biết trí thức của ta đến những trải nghiệm của sự phát triển Tâm linh. Truyền năng lượng đều đặn với NLVT qua 2 Luân xa 7 và 6 sẽ kích họat Tuyến Tùng và Tuyến Yên trong hệ thống nội tiết, để những tuyến này hoạt động với một mức độ cao nhất, làm chậm trễ sự xuất hiện của những căn bệnh suy hóa và sự hóa già./.

Thầy Lương Minh Đáng & Ngành Nhân Điện

Giáo sư, Bác sĩ, Tiến sĩ, Huân tước, Đại hiệp sĩ: Prof. Dr. Sir Master Lương Minh Đáng – D.Ac.,M.D.(TM)., Ph.D., D.Sc., K.St.J ( Knight Commander). Người Thầy – Vị sáng lập của Trường Học Năng Lượng Vũ Trụ – Nhân Điện, sinh ngày 30 tháng 01 năm 1942 tại thành phố Mỹ Tho miền nam Việt Nam. Năm 1985, Thầy Lương Minh Đáng đã di trú sang Hoa Kỳ và sau đó đã nhập quốc tịch Mỹ. Tại đây ngành Nhân Điện được sáng lập nên với danh xưng đầu tiên” Tâm linh – Con người – Thiền định” – S.H.Y và nay có tên là” Nhân Loại – Giác ngộ – Tình thương” – M.E.L.
Thầy Lương Minh Đáng đã giúp nhiều người có được sức khỏe tốt và số người yêu cầu sự giúp đỡ (miễn phí) đã gia tăng đáng kể. Với sự khuyến khích và lời yêu cầu của số đông người, vào ngày 20 tháng 7 năm 1989, Thầy Lương Minh Đáng đã dạy Khóa Học Cấp 1 đầu tiên cho một nhóm gồm 27 học viên tại tiểu bang California, Hoa Kỳ. Trong những năm sau đó, Thầy đã tiếp tục dạy học tại nhiều quốc gia với sự hiện diện của Thầy hoặc qua hệ thống truyền hình.

Vào tháng 9 năm 1994, Thầy Lương Minh Đáng đã được Trường Đại Học Quốc Tế Mở Rộng Y Học Bổ Sung (Colombo, Sri Lanka) trao tặng bằng Tiến Sĩ (Ph.D.) Y Học Bổ Sung tại thành phố Munich, Đức Quốc. Vào tháng 4, năm 1996, Thầy Lương Minh.Đáng được Trường Đại Học Quốc Tế Mở Rộng Y Học Bổ Sung trao tặng chức vị Tiến Sĩ Khoa Học Danh Dự, chính thức bổ nhiệm chức vụ: Giáo sư của Trường Đại học này kể từ từ tháng 11 năm 1997. Ngoài ra, Thầy còn được học viện tuyên dương trao Tước vị Huân tước , được mời làm Thành viên Hội đồng Quản trị tối cao của Trường Đại học nói trên. Năm 2000, trong kỳ Đại hội kỳ thứ 38 “ The World Congress of the Unified New Medicine Beyond 2000”, Thầy Lương Minh Đáng đã được tước phong danh vị: Đại hiệp sĩ” KNIGHT COMMANDER”.
Trường Đại học Quốc tế Mở rộng Colombo, Srilanka được thành lập theo Bản Tuyên Ngôn của Tổ Chức Y Tế Thế Giới năm 1962, và đã được Tổ Chức Liên Hiệp Quốc thừa nhận những đóng góp cho sự Hòa Bình theo Hiến Chương LHQ do quyết định số: 35/35/5/XI/1980 của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc.
Do những đóng góp của mình trong:
– Sự nghiệp khảo sát các ứng dụng Năng Lượng, Nhân Loại và Vũ Trụ để chữa lành các chứng bệnh của Loài Người và gia tăng các sản phẩm nông nghiệp.
– Chữa bệnh miễn phí với các kết quả tốt cho hơn 30 triệu người trên 64 Quốc gia trên khắp Thế Giới.
Thầy Lương Minh Đáng đã được Tổ chức Albert Schweitzer trao giải thưởng Albert Schweitzer Award 2001 từ Quỹ Tài Trợ Albert Schweitzer tháng 11/2001,vì những thành quả Nhân đạo và Từ thiện của Thầy, với sự đề cử của trên 100 Tổ chức và nhiều Nhân Vật nổi tiếng trong ngành Y học.
Tháng 11 năm 2002, Phân Khoa Trị Liệu bằng Năng Lượng Con Người và Vũ Trụ đã được thành lập tại Trường Đại Học Quốc Tế Mở Rộng Y Học Bổ Sung (Colombo, Sri Lanka). Thầy Lương Minh Đáng đã được giao phó trách nhiệm Chủ Nhiệm của Phân Khoa mới thành lập, và đồng thời kiêm chức vị Phó Hiệu Trưởng Bộ Ngoại Vụ của cùng Trường Đại Học.
Công việc truyền bá của ngành Năng Lượng Vũ Trụ đã phổ biến khắp Bắc Mỹ Châu cũng như các quốc gia khác trên lục địa Âu Châu, Á Châu, Trung và Nam Mỹ Châu, cũng như Phi Châu và Úc Châu. Từ tháng 7 năm 1989 đến tháng 8 năm 2007, Thầy Lương Minh Đáng đã truyền dạy từ Khóa Cấp 1 đến Khóa Cấp 20 (Khóa Ứng Dụng Khoa Học Tâm Linh II). Kể từ nhóm đầu tiên gồm 27 học viên, tổng số học viên của Trường Năng Lượng Vũ Trụ vào thời điểm hiện tại có khoảng 3 triệu hành giả bao gồm những bối cảnh văn hóa, tuổi tác, chủng tộc, và tôn giáo khác nhau, từ hơn 60 quốc gia trên khắp 5 châu. Số lượng người đã từng được truyền năng lượng miễn phí có khoảng vài triệu người.
Bác Sĩ Nguyễn Thu Thủy-Theresa và Thầy Lương Minh Đáng
Trong năm 1998 Thầy Lương Minh Đáng đã kết hôn với Bác Sĩ Theresa Thu-Thủy Nguyễn, trong năm 2000 Thầy Lương Minh Đáng cùng Bác Sĩ Nguyễn định cư tại Melbourne, Úc Châu, và sau đó Thầy đã nhập quốc tịch Úc Châu.
Sau sự kiện quá cố của Thầy Lương Minh Đáng tại Melbourne, Úc Châu vào ngày 12 tháng 8 năm 2007, quả phụ của Thầy, Bác Sĩ Theresa Thu-Thủy Nguyễn đã trở thành Trưởng phân khoa Nhân Điện tại Trường Đại Học Quốc Tế Mở Rộng Y Học Bổ Sung (Colombo, Sri Lanka) thay Thầy Đáng và trở thành một trong những Giảng viên hàng đầu của Trường Học Năng Lượng Vũ Trụ, cùng hàng trăm Giảng viên xuất sắc của Ngành đang tiếp nối theo sứ mệnh của Thầy.
Bác Sĩ Theresa Thu-Thủy Nguyễn sinh ngày 27 tháng 11 năm 1957 tại Thành phố Sài Gòn, Việt Nam và Cô đã di trú đến Úc Châu vào năm 1979. Cô Thủy đã đậu bằng Cử Nhân Y Khoa và Phẩu Thuật tại trường Đại Học Melbourne, Úc Châu (1988) và vào năm 1997 Cô Thủy được Trường Đại Học Quốc Tế Mở Rộng Y Học Bổ Sung (Colombo, Sri Lanka) cấp bằng Tiến Sĩ (Ph.D.).
Bác Sĩ Theresa Thủy hiện nay nhậm chức Chủ Nhiệm của Phân Khóa Trị Liệu bằng Năng Lượng Con Người và Vũ Trụ tại Trường Đại Học Quốc Tế Mở Rộng Y Học Bổ Sung, và đồng thời kiêm chức vị Phó Hiệu Trưởng Bộ Ngoại Vụ của Trường Đại Học. Hiện nay Bác Sĩ Theresa Thủy là Chủ Tịch của Học Viện Năng Lượng Con Người, Vũ Trụ và Tâm Linh (HUESA).
Ngành học Năng Lượng Vũ Trụ, được sáng lập bởi Thầy Lương Minh Đáng, đã được biết đến và được giảng dạy tại nhiều quốc gia qua những danh xưng khác nhau: Năng Lượng Con Người và Vũ Trụ (HUE), Tâm Linh Con Người Thiền Định (SHY), và Nhân Loại Giác Ngộ Tình Thương (MEL). Tuy nhiên tất cả chỉ là một: Ngành Nhân Điện.

{/tabs}

Benhvathuoc