Một số loại rau củ quả có tác dụng chữa bệnh

1023

Một số loại rau củ quả có tác dụng chữa bệnh

 

 

{tab=Tỏi}

Rượu tỏi
Vào cuối năm 1982 mới bắt đầu uống rượu ngâm tỏi, thì 20 ngày sau bắt đầu thấy giảm bệnh sưng khớp. Qua 03 tháng, huyết áp trở lại bình thường. Bệnh viêm họng cũng khỏi_Hen phế quản giảm nhiều. Ngoài ra tác giả còn cho biết bịnh trĩ nội mỗi năm đi mất 05, 07 lần. Hen phế quản nặng cấp cứu nằm bệnh viện 02, 03 lần. Từ khi liên tục dùng rượu tỏi cho tới nay đã gần 08 năm mà không phải đi bệnh viện lần nào cả. Ngủ rất bình thường, ăn thì tiêu hoá tốt, đặt biệt đối với bệnh thấp khớp thì coi như thuốc thần. Vì tác giả trước đây khổ vì thấp khớp, nay khỏi hẳn không còn biểu hiện gì cả.
XUẤT XỨ:
Vào những năm 1960-1970, WHO_cơ quan theo dõi sức khoẻ & bệnh tật thế giới của Liên Hiệp Quốc phát hiện ở Ai Cập là một nước nghèo, khí hậu sa mạc khắc nghiệt nhưng sức khoẻ chung của nhân dân Ai Cập lại vào loại tốt, ít bệnh tật & tuổi thọ trung bình tương đối cao. WHO đặt vấn đề với chính phủ Nasser xin cử một phái đoàn của WHO về Ai Cập nghiên cứu xem tại sao có hiện tượng lạ như thế mà nghành Y tế Ai cập chưa giải thích được. Ðược Tổng Thống Nasser đồng ý WHO huy động nhiều chuyên gia y tế về Ai Cập nghiên cứu chia nhau đi xuống nông thôn, các vùng có khí hậu khắc nghiệt để thu thập các tài liệu đặc biệt. Cuối cùng các nhà nghiên cứu (đông nhất là Hoa Kỳ, Tây Âu, Nhật Bản) nhận xét là ở Ai Cập nhà nào cũng có 01 lọ rượu ngâm tỏi để uống. Nhân dân Ai Cập nói từ bao nhiêu thế kỷ nay nước họ vẫn là thế. Ngày xưa Ai Cập là một đế chế lớn, chinh chiến liên miên, chủ yếu là xử dụng gươm dao chém giết nhau. Thời ấy làm gì có thuốc kháng sinh, nên họ chỉ dùng nước tỏi để uống & cũng để rửa các vết thương. Ở các vùng tỏi được ngâm rượu theo những công thức khác nhau. Chuyên gia các nước đem những công thức đó về nước mình nghiên cứu và phân tích. Kết luận cái gì tốt rồi sau đo’ thông qua một báo cáo gởi cho WHO. Sau đó WHO tổng kết & hội thảo về vấn đề này. Rồi đến năm 1980 họ thông báo:
Rượu tỏi chữa trị được 04 nhóm bệnh:
1) Thấp khớp (sưng khớp, vôi hoá các khớp, mỏi xương cốt). 2) Tim mạch (huyết áp thấp, huyết áp cao, hở van tim, ngoại tâm thư) 3) Phế quản (viêm phế quản, viêm họng, hen phế quản). 4) Tiêu hoá (ăn khó tiêu, ợ chua, viêm tá tràng, loét bao tử). Ðến năm 1983, Nhật lại thông báo bổ sung thêm 02 nhóm bệnh nữa là:5) Trĩ nội & trĩ ngoại. 6) Ðại tháo đường (tiểu đường) Nhật cũng công bố:”-Ðây là một loại thuốc tuyệt vời của nhân loại vì dễ làm, rẻ tiền, không gây phản ứng phụ & có hiệu quả chữa bệnh rất cao”.
NGUYÊN LÝ
Con người ta thông thường tuổi từ 40 trở lên (có thể trẻ hơn nữa) là đã có bệnh. Các bộ phận trong cơ thể bắt đầu thoái hoá, bộ phận nào yếu thì thoái hoá nhanh, đặt biệt là làm cho các chức năng hấp thụ chất béo (lipid) chất đường (glucone) bị suy giảm. Các chất đó không hấp thụ hết qua đường tiêu hoá, phần thừa không thải ra ngoài được, dần dần lắng đọng trong thành vách mạch máu, làm xơ cứng động mạch & xơ cứng một số bộ phận khác rồi lâu ngày gây ra những chứng bệnh như trên.
Trong tỏi có 02 chất quan trọng:
1) Phitoncid là loại kháng sinh thực vật có tác dụng diệt một số vi khuẩn. 2) Hoạt tính màu vàng giúp làm tiêu chất béo dưới dạng cholesterol bám vào thành quách mạch máu, làm cho đường đi của máu từ tim ra & về tim bị nghẽn. Chính nhờ 02 chất này mà tỏi có tác dụng chữa bệnh cao.
KẾT QUẢ CHỮA BỆNH:
Tác giả tổng hợp bài viết này theo kinh nghiệm chứng thực cho biết: Từ năm 1970 bị thấp khớp nặng_sưng cả các khớp phải đi bằng gậy chống. Thuốc tân dược & đông y dùng đã nhiều như “Cao hổ cốt”, “rượu tắc kè” (lúc nào cũng có sẵn), thế mà bệnh không đỡ lại nặng thêm. Năm 1975 bị ngã gần chết. Năm 1981 bị ngất phải đưa vào cấp cứu ở bệnh viện 03 ngày mới hết nên sức khoẻ càng giảm.
Vào cuối năm 1982 mới bắt đầu uống rượu ngâm tỏi, thì 20 ngày sau bắt đầu thấy giảm bệnh sưng khớp. Qua 03 tháng, huyết áp trở lại bình thường. Bệnh viêm họng cũng khỏi_Hen phế quản giảm nhiều. Ngoài ra tác giả còn cho biết bịnh trĩ nội mỗi năm đi mất 05, 07 lần. Hen phế quản nặng cấp cứu nằm bệnh viện 02, 03 lần. Từ khi liên tục dùng rượu tỏi cho tới nay đã gần 08 năm mà không phải đi bệnh viện lần nào cả. Ngủ rất bình thường, ăn thì tiêu hoá tốt, đặt biệt đối với bệnh thấp khớp thì coi như thuốc thần. Vì tác giả trước đây khổ vì thấp khớp, nay khỏi hẳn không còn biểu hiện gì cả.
Cho nên, kết luận của người Nhật phần trên là hoàn toàn đúng: “Ðây là thứ thuốc tuyệt vời của nhân loại, vì dễ làm, rẻ tiền, không gây phản ứng phụ & lại có hiệu quả chữa bệnh rất cao.
{tab=Lá đu đủ}
Lá đu đủ có chữa được bệnh ung thư?
Tuy nhiên công dụng của lá đu đủ như thế nào, có chữa được bệnh ung thư hay không thì GS Hiền chưa dám khẳng định. GS mong muốn được các nhà khoa học, các cơ quan chuyên môn nghiên cứu xác minh cụ thể để có những kết luận chính thức về tác dụng của lá đu đủ trong phòng chống bệnh ung thư.Thời gian vừa qua, nhiều bạn đọc đã gọi điện cho chúng tôi hỏi về thông tin uống lá và cuống đu đủ với mật mía có thể chữa được bệnh ung thư không? Nếu thực sự lá và cuống đu đủ là phương thuốc chữa được bệnh ung thư thì đây là một tin vui quá lớn đối với người bệnh. Tin vui ở nhiều góc độ, vui vì nguyên liệu là lá và cuống đu đủ rất dễ tìm, dễ trồng. Từ cái dễ tìm, dễ trồng đó, thì chắc chắn nữa là giá cả của phương thuốc này cũng rẻ hơn, phù hợp cho người bệnh hơn là thuốc tây.
GS Nguyễn Xuân Hiền, nguyên trưởng khoa Da liễu BV Quân Y 108, người đang giữ công thức chữa bệnh nói trên cho biết: “công thức chế biến lá và cuống đu đủ thành “thần dược” chữa bệnh ung thư và cách sử dụng chúng được ông kế thừa từ bà Lê Thị Đặng ở số nhà 181 đường Phan Đăng Lưu, quận Phú Nhuận, TP. HCM. Năm 1998, chồng bà Đặng là ông Bùi Hoán, 80 tuổi bị mắc bệnh ung thư lưỡi giai đoạn III. ông Hoán thường xuyên phải vào Bệnh viện Thống Nhất và Bệnh viện Ung Bướu để xạ trị và găm kim phóng xạ nhưng bệnh tình vẫn không thấy tiến triển. Lúc đó khối u từ rìa lưỡi bên phải đã di căn xuống xương hàm, thủng ra má phải và liên tục trút máu tươi và mủ. ông Hoán thường xuyên phải chịu đau đớn, miệng mở ra khó khăn và gần như không nói được chuyện. Trong quá trình chữa bệnh cho chồng, bà Đặng đã phát hiện ra thông tin: Bài thuốc bắt nguồn từ một người úc tên là Stan Sheldon bị bệnh ung thư phổi trầm trọng, hai lá phổi đã nát, các bác sỹ đều kết luận ông không thể sống được nữa. Nhưng ông đã được một thổ dân úc tiết lộ phương thuốc cổ truyền của họ là dùng lá đu đủ nấu lấy nước uống. ông Sten Sheldon đã uống liên tục trong vòng hai tháng. Sau đó phổi của ông đã trong trở lại, sức khoẻ bình phục. ông Sten Sheldon đã chỉ cách chữa bệnh cho 16 người bị mắc một số bệnh ung thư khác nhau và họ đã khỏi hoàn toàn. Nhiều nhà khoa học và bác sỹ chuyên khoa ung thư ở úc, Mỹ đã nghiên cứu, thử nghiệm với một số bệnh nhân và họ đều thừa nhận công hiệu của lá đu đủ trong việc trị liệu ung thư.
Sau khi có phương thuốc này, bà Đặng đã sử dụng để điều trị cho ông Hoán uống nước từ lá đu đủ liên tục trong một thời gian thì thấy ông hết đau miệng, nói được, ngủ được, tiêu hoá tốt, da dẻ hồng hào. Đặc biệt các vết lở loét đã hoàn toàn lành lặn, các bộ phận nội tạng trong cơ thể rất ổn định, ông Hoán cũng khỏi hẳn bệnh ung thư lưỡi”.
GS Nguyễn Xuân Hiền cho biết thêm, khi nhận được bài thuốc, ông là người dùng đơn thuốc này điều trị cho con gái của ông bị ung thư phổi, kết hợp cùng với tia xạ và hoá chất. Thời gian đầu cũng đỡ nhưng do bệnh của con gái ông đã quá nặng, chuyển sang giai đoạn di căn rồi nên bài thuốc không đem lại hiệu quả. Vợ ông là bà Tuất thường xuyên uống nước lá đu đủ nấu cũng đã chữa được bệnh viêm đại tràng mãn tính.
Theo những tài liệu ông Hiền cung cấp, công thức nấu lá đu đủ không mấy cầu kỳ: Có thể chọn bất kỳ một cây đu đủ (không nhất thiết phải là cây cái hay cây đực và xuất xứ trồng từ vùng nào, giống gì), lấy lá và cuống để tươi chứ không để khô, không dùng dao cắt, rồi đập cuống đu đủ cho dập, lá vò nhẹ. Sau đó bỏ tất cả vào nồi thuỷ tinh hoặc nồi Inốc, đường kính khoảng 30cm, cho càng nhiều càng tốt. Đổ xâm xấp nước, đun từ từ đến khi sôi, để sôi 10 phút, sau đó tắt lửa, đậy vung để nguội dần. Sau 2 giờ đun, rót nước ra uống. Cách uống như sau: Mỗi ngày uống 600ml chia 3 lần, mỗi lần 200ml, khi uống kèm theo 2 thìa cà phê mật mía, uống vào lúc no. Trong thời gian uống thứ thuốc này người bệnh không phải ăn kiêng. Ngoài ra cần lưu ý một số điều: Phải uống cùng với mật mía, uống liên tục từ 5-6 tháng trở lên mới có kết quả. Nước lá đu đủ để ngoài dễ bị thiu và lên men nên khi nấu xong cần cho vào tủ lạnh để uống dần.
Từ giữa năm 2000, GS Hiền đã phổ biến cách chữa bệnh này cho 12 bệnh nhân và thường xuyên theo dõi qua điện thoại kết quả điều trị của họ. GS đã tổng kết, có 4 trường hợp tốt (3 u phổi, 1 chửa trứng); 3 trường hợp bệnh đã thuyên giảm là u phổi; 1 trường hợp xấu; 3 người chết và 1 không có khả năng sống. Từ kết quả thu được, GS Hiền nhận xét: Các trường hợp uống thuốc không đem lại hiệu quả thường rơi vào những người bệnh nặng đã chuyển sang di căn; không uống đủ trong thời gian 5 – 6 tháng hoặc uống được một thời gian thì chuyển sang thuốc khác.
Tuy nhiên công dụng của lá đu đủ như thế nào, có chữa được bệnh ung thư hay không thì GS Hiền chưa dám khẳng định. GS mong muốn được các nhà khoa học, các cơ quan chuyên môn nghiên cứu xác minh cụ thể để có những kết luận chính thức về tác dụng của lá đu đủ trong phòng chống bệnh ung thư.
{tab=Vỏ cam quýt}
Theo Kurowska, PMF có thể đã khống chế khả năng phân tiết cholesterol LDL của gan. Nhóm đang tính đến việc tăng cường hiệu quả chống loại cholesterol độc hại này bằng việc kết hợp PMF với vitamin E. Tuy nhiên, để giảm cholesterol, người ta không thể trông cậy hoàn toàn vào vỏ cam quít. Lời khuyên đáng tin cậy nhất vẫn là năng vận động cơ thể, ăn nhiều rau quả và hạn chế tối đa chất béo no.
Nhai vỏ cam có thể khiến bạn nhăn mặt, song thực chất nó rất tốt cho sức khỏe. Theo một nghiên cứu mới đây của Mỹ, chiết xuất từ vỏ cam, quít có khả năng hạn chế gan xuất tiết loại cholesterol độc hại LDL – thủ phạm gây ra các bệnh tim mạch.
Hợp chất từ vỏ cam quít có tên khoa học là polymethoxylated flavones (PMF) – thực chất là những yếu tố chống oxy hóa tích cực thuộc nhóm flavonoid, tiến sĩ Elzbieta Kurowska làm việc cho một công ty dược của Canada tại Mỹ có tên là KGK Synergize, cho biết. Nhóm flavonoid tập trung trong các loại rau quả, lá chè và rượu vang đỏ.
Trong phần thịt của hoa quả chua cũng chứa các chất PMF, song chỉ ở một lượng rất nhỏ do hợp chất này không hòa tan trong nước. Trong khi đó, vỏ của chúng lại tập trung PMF nhiều gấp 20 lần. Cơ thể con người rất dễ hấp thu và chuyển hóa các chất này.
Trong nghiên cứu, Kurowska và cộng sự đã vỗ béo cho những con chuột đồng bằng một chế độ dinh dưỡng giàu cholesterol, rồi cho chúng hấp thu hợp chất PMF từ vỏ cam, quít. Kết quả cho thấy, chỉ 1% PMF trong khẩu phần ăn hằng ngày cũng làm giảm tới 40% lượng cholesterol LDL ở số chuột trên.
Nhóm nghiên cứu cũng thử nghiệm hai chất flavonoid đặc trưng khác là hesperetin và naringenin trên một số con chuột có cholesterol cao, và tác dụng hạ cholesterol LDL cũng được ghi nhận. Tuy nhiên, hai chất này phải cần tới một lượng lớn gấp 3 lần hợp chất PMF từ vỏ cam, quít mới cho hiệu quả tương tự.
Theo Kurowska, PMF có thể đã khống chế khả năng phân tiết cholesterol LDL của gan. Nhóm đang tính đến việc tăng cường hiệu quả chống loại cholesterol độc hại này bằng việc kết hợp PMF với vitamin E. Tuy nhiên, để giảm cholesterol, người ta không thể trông cậy hoàn toàn vào vỏ cam quít. Lời khuyên đáng tin cậy nhất vẫn là năng vận động cơ thể, ăn nhiều rau quả và hạn chế tối đa chất béo no.
{tab=Nho}
TRÁI NHO: có thể trị được 10 thứ bịnh:
a.- Buổi sáng khoảng 11 giờ ăn 10 quả nho có thể trị chứng đau đầu, nặng đầu, chóng mặt, con mắt mệt mỏi, muốn ngủ, đau đầu một bên, chảy mũi nước.b.- Buổi chiều khoảng 4 giờ, ăn 1 chùm nho có tác dụng thanh lọc máu, bổ máu, bổ khí, tiêu trừ sự mệt mỏi.c.- Chất chống oxy hóa có trong quả nho chống lại sự phát triển của một loại vi khuẩn gây nên tình trạng viêm nhiễm ở lợi. Ngoài nho, trà xanh cũng bảo vệ răng miệng rất tốt.
{tab=Nước ép anh đào}
Một kết quả nghiên cứu cho thấy nước ép anh đào có thể giúp người uống tận hưởng giấc ngủ ngon không mộng mị. Một cuộc nghiên cứu khác cũng phát hiện người lớn bị mất ngủ kinh niên có thể giảm được những triệu chứng liên quan đến tình trạng này nếu uống 2 tách nước ép anh đào mỗi ngày. Điều này do quả anh đào chứa melatonin, hormone có lợi cho giấc ngủ.
{tab=Đậu edamame}
Collagen, loại protein giúp da săn chắc, trẻ trung và căng bóng, bắt đầu giảm dần khi con người bước vào độ tuổi trên 20. Ăn đậu edamame và những thực phẩm làm từ đậu nành có thể duy trì được collegen trong da do chúng chứa nhiều isoflavone.
{tab=Ngò tây}
Rất lý tưởng khi muốn xóa đi hơi thở nặng mùi sau khi ăn tỏi. Chất polyphenol, có tác dụng như chất chống oxy hóa, có thể đánh bật hợp chất sulfur trong tỏi. Để đạt được hiệu quả tốt nhất, nên kết hợp tỏi và ngò tây trong cùng một món ăn thay vì ăn tỏi xong rồi mới ăn ngò tây. Ngoài ra, cây húng quế, táo, cải bó xôi cũng giàu polyphenol.
{tab=Lá tía tô}
Tía tô có tên khoa học là Perilla frutescens Britt, họ hoa môi (Lamiaceae) là cây thảo, cao 0,5-1m. Lá mọc đối, mép khía răng, mặt dưới tím tía, có khi hai mặt đều tía, nâu hay màu xanh lục có lông nhám.Tía tô (shiso) trong tiếng Nhật có nghĩa là “cây tím làm hồi sinh” và được dân tộc này sử dụng từ rất lâu. Tía tô có tính ấm, vị cay, không độc, hương vị là sự pha trộn giữa hồi hương, cam thảo, quế và the mát sát khuẩn. Lá dùng làm gia vị rất phổ biến, đồng thời là vị thuốc rất hay dùng để trừ cảm mạo. Hạt làm trà uống và thuốc hạ khí, cành làm thuốc an thai. Trường hợp không có thì dùng thay thế cho nhau cũng được.
Theo tạp chí Newly revised Makino’s new illustrated flora of Japan thì tinh dầu chiết xuất từ lá tía tô bằng cách chưng cất hơi nước bao gồm một loạt các hợp chất hóa học, có thể thay đổi tùy thuộc vào loài. Dầu tía tô được sử dụng như một loại dầu ăn có giá trị nhiều hơn cho lợi ích y học so với hương vị của nó. Nhiều nhất, chiếm khoảng 50-60% dầu, là perillaldehyde tạo nên mùi thơm và hương vị của tía tô, được sử dụng như một chất ngọt nhân tạo ở Nhật. Dầu ép từ tía tô chứa 40% dầu bão hòa đa (60% acid linolénic, 15% A.linoléic, 15% A.oléic).
Trong ẩm thực, tía tô do có tính chống dị ứng nên được sử dụng chung với cua hay hải sản. Tía tô là vị thuốc được y dược học đông phương xếp vào loại làm cho xuất mồ hôi, thuộc các trường hợp bệnh do cảm lạnh, cần chữa bằng cách cho ra mồ hôi, khỏi sốt.
Trong y học cổ truyền Trung Quốc, tía tô được dùng như một vị thuốc để tạo hưng phấn, trị cảm, nhức mỏi, ho suyễn. Hạt chứa tinh dầu có tính bốc hơi, giúp bảo quản và khử trùng thức ăn. Khi trái gió trở trời, tô cháo giải cảm thật nóng, thật cay, thơm mùi rau tía tô tỏ ra rất hiệu quả.
Ngoài nấu cháo hoặc xông hơi giải cảm thì tía tô còn được sử dụng trong các trường hợp như: chữa ho, hen, đàm suyễn tức ngực, khó thở; chữa thương hàn, ho suyễn; người lớn tuổi hay thở suyễn, đuối hơi; trẻ em ho nhiều thở gấp, mặt tím tái; người già ho nhiều đờm đặc, khó thở (viêm phế quản mãn tính); rối loạn tiêu hóa; ngộ độc thức ăn; táo bón ở người già suy nhược…
Do cây tía tô phát triển tốt trong môi trường nắng và ẩm nên nhiều người đã dùng tía tô làm cây kiểng trang trí.

{/tabs}

{tab=Lá lốt}
Ngoài để chế biến món ăn, lá lốt còn có tác dụng chữa đau xương, thấp khớp, ra mồ hôi tay chân. Mỗi ngày dùng 16 gr – 30 gr lá tươi hoặc 6 gr – 12 gr lá khô, sắc lấy nước uống. Dùng ngoài có thể ngâm tay chân vào nước sắc lá lốt để chữa đau nhức, xương khớp, ra mồ hôi tay chân.
{tab=Lá sen}
Hiện diện trong nhiều nhà hàng dưới dạng cơm gói lá sen cao cấp. Tuy nhiên, lá sen còn có tác dụng như thuốc cầm máu, vào ba Kinh Can, Tỳ, Vị chữa phù thũng, tiêu chảy, nôn ra máu, chảy máu cam. Mỗi ngày dùng 16 gr – 20 gr dưới dạng thuốc sắc.
{tab=Lá vông nem}
Dùng để gói nem, ngoài ra người ta còn dùng nước sắc lá vông để chữa mất ngủ hay dùng lá vông hơ nóng để chữa trĩ. Mỗi ngày có thể sử dụng 4 gr – 10 gr.
{tab=Lá mơ}
Thường đi kèm với món thịt cầy hay thịt heo giả cầy… Tuy nhiên, lá mơ lông còn có tác dụng chữa bệnh. Dùng 30 gr lá mơ lông trộn với trứng gà, bọc vào lá chuối nướng, ăn ngày 2-3 lần để chữa kiết lỵ. Ngoài ra, nước sắc lá mơ còn có thể chữa bệnh sỏi thận, bí tiểu tiện.
{tab=Lá dâu tằm}
(còn gọi là Tang diệp)
Vị đắng ngọt, có tác dụng chữa sốt, ho, chảy nước mắt, cảm, viêm họng, đau đầu, mất ngủ, cao huyết áp. Dùng nước sắc lá dâu làm nước súc miệng để chữa đau – viêm họng với liều lượng khoảng 6 gr-12 gr lá dâu/ngày.
{tab=Lá trầu}
Ngoài việc dùng để ăn cùng với vôi và cau như phong tục, người ta còn dùng lá trầu để sát trùng bằng cách giã lá trầu cho nước sôi vào rồi dùng rửa vết loét ngoài da, mẩn ngứa, vết chàm… Dân gian còn dùng lá trầu hơ nóng đắp vào ngực để chữa ho hoặc để ngăn tiết sữa.
{tab=Lá trắc bá diệp}
(còn gọi là lá thuộc bài )
Có chứa tinh dầu và các flavon, axit hữu cơ. Dùng 6 gr-12 gr trắc bá diệp làm thuốc cầm máu trong các trường hợp chảy máu cam, nôn ra máu, tiểu tiện ra máu, băng huyết… Ngoài ra, trắc bá diệp còn có thể chữa ho, sốt hay giúp thông tiểu.

{tab=Lá sống đời}
Thường được dân gian dùng đắp bên ngoài để chữa bỏng, cầm máu vết thương hay những chỗ bị đụng dập, sưng đau.

{/tabs}

{tab=Lá muồng trâu}
Mọc hoang nhiều ở nước ta, thường sử dụng dùng ngoài để chữa hắc lào, dân gian giã nát lá muồng bôi vào, vài lần là khỏi. Dùng khoảng 4 gr-6 gr nước sắc lá muồng có tác dụng nhuận tràng.

{tab=Kinh giới}
Xuất xứ:
Ngô Phổ Bản Thảo.
Tên khác: Giả tô, Khương giới (Biệt Lục), Thử minh (Bản Kinh), Kinh giới huệ, Kinh giới thán, Nhất niệp kim, Tái sinh đơn, Như thánh tán, Độc hành tán, Cử khanh cố bái tán, Tịnh giới (Hòa Hán Dược Khảo), Hồ kinh giới, Thạch kinh giới, Trân la kinh (Bản Thảo Cương Mục)
Mô tả cây: Kinh giới là một loại cỏ, sống hằng năm, mùi rất thơm, cao 0,60 – 0,80m, thân vuông, phía gốc màu  hơi tía, toàn  cây có lông mềm ngắn. Lá mọc đối,  lá dưới gốc không có cuống hay gần  như không có cuống, xẻ sâu thành 5 thùy, lá phía trên cũng không cuống, xẻ 3 đến 5 thùy. Hoa tự mọc thành bông gồm những hoa mọc vòng ở mỗi đốt. Bông hoa dài 3 – 8cm, hoa nhỏ, màu tím nhạt. Quả hình trứng hay hình trái xoan, dài chừng 1mm, mặt bóng, màu nâu.
Địa lý: Cây Kinh giới (Schizonepeta tenuifolia) chưa thấy mọc ở Việt Nam. Ở nước ta chỉ mới thấy trồng loại Kinh giới Elsholtzia Cristata để ăn và làm thuốc.
Thu hái: Vào mùa thu, lúc hoa nở bông còn xanh,  nhổ cả cây phơi hay sấy khô gọi là toàn Kinh giới, nhưng có nời chỉ cắt hoa và cành, nếu cắt hoa phơi khô gọi là Kinh giới tuệ, nếu hái toàn cây trừ bỏ phần rễ thì gọí là Kinh giới.
Bộ phận dùng làm thuốc: Toàn cây (Herba Schizonepetae). Thứ mầu tím nhạt, thân nhỏ, bông nhiều hoa dầy là tốt.
Mô tả dược liệu:
Cây thẳng đứng, hình trụ vuông, 4 mặt có rạch dọc, phần trên nhiều cành. Dài 50-100cm, đường kính 0,3-0,5cm. Ngoài mặt mầu tím nhạt. Chất nhẹ, dòn, dễ bẻ gẫy, chỗ gẫy có tủy mầu trắng. Lá mọc đối, phiến lá se, thùy nhỏ, dài. Đầu cành mọc hoa tự tán vòng, hình trụ, mầu lục, dài 6,6cm-10cm, đường kính 0,6cm. Mùi thơm, vị hơi chát, cay và mát (Dược Tài Học).
Bào chế:
+ Bỏ tạp chất, rửa sạch, thái từng đoạn, phơi khô để dùng. Hoặc cho Kinh giới vào nồi, chảo, sao đen, phơi khô, để dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Chặt ngắn, phơi hoặc sấy nhẹ đến thật khô, hoặc sao cháy (Dược Liệu Việt Nam).
+ Kinh giới thán: Lấy Kinh giới, cho vào nồi rang với lửa to cho thành mầu nâu đen nhưng còn tồn tính. Rẩy nước vào, lấy ra phơi khô để dùng (Dược Tài Học).
Bảo quản:
Đậy kín, để nơi khô ráo (Dược Liệu Việt Nam).
Thành phần hóa học:
+ Trong Kinh giới có d- Menthone, Menthone, d- Limonene (Trung Dược Học).
+ Trong Kinh giới Schizenepeta tenuifolia có chừng l,8% tinh dầu. Thành phần chủ yếu của tinh dầu này là d. Menton, một ít d. Limonen (Những Cây Thuốc Vị Thuốc Việt Nam).
+ Pulegone, Menthone, Isomenthone, Isopulegone, 1-Ethoxypentane, 3-Methylcyclohexanone, Benzaldehyde, 1-Octaen-3-Ol, 3-Octanone, 3-Octanol, Cymene, Limonence, Neomenthol, Menthol, Piperitone, Piperitenone, Humulene, Caryophyllene, b Pinene, 3,5-Dimethyl-2-Cyclohexen-1-One, Ethenyl Dimhyl Bezene, Cineole, Carvone, Dihydrocarvone, Verbenone (Diệp Định Giang, Trung Dược Thông Báo 1985, 10 (7): 307).
+ Schizonol, Schizonodiol (Oshima Y và cộng sự Planta Med, 1989, 55 (2): 179).
+ Schizonol, Diosmetin, Hesperidin, Hesperetin-7-O-Rutinoside, Luteoline (Oshima Y và cộng sự, Planta Med, 1989, 55)2): 179).
+ Rosmaniric acid monomethyl ester, Schizoteuin A (Kubo M và cộng sự, C A 1993, 118: 240923b).
Tác dụng dược lý:
+ Tác dụng điều hòa nhiệt độ: Uống nước sắc Kinh giới có tác dụng tăng tuần hoàn ở phần biểu. Có báo cáo cho rằng nó có tác dụng hạ nhiệt (Trung Dược Học).
+ Tác dụng cầm máu: Nước sắc Kinh giới có tác dụng rút ngắn thời gian đông máu (Trung Dược Học).
+ Cầm máu (sao cháy thành than trên thực nghiệm thấy có tác dụng rút ngắn thời gian máu chảy và máu đông (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Nước sắc và cồn ngâm kiệt thuốc có tác dụïng hạ nhiệt nhẹ, an thần,  làm gĩan cơ trong phế quản của chuột lang, chống dị ứng (Trung Dược Học).
Tính vị:
+ Vị cay, tính ấm (Bản Kinh).
+ Không độc (Biệt Lục).
+ Tính hơi ôn (Trấn Nam Bản Thảo).
+ Vị cay, the. Tính hơi ấm (Trung Dược Học).
+ Vị cay, tính ấm (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Vị cay, tính hơi ấm (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Quy kinh:
+ Vào kinh túc Quyết âm Can, phần khí  (Bản Thảo Cương Mục).
+ Vào kinh Phế, can (Lôi Công Bào Chích Luận).
+ Vào kinh túc Quyết âm Can, túc Thiếu dương Đởm, túc Dương minh Vị (Bản Thảo Hối Ngôn).
+ Vào kinh Phế, Can (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Vào kinh Phế và Can (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Tác dụng:
+ Phá kết tụ khí, hạ ứ huyết, trừ thấp tý (Bản Kinh).
+ Trợ Tỳ Vị (Thực Liệu Bản Thảo).
+ Lợi ngũ tạng, tiêu thực, hạ khí, tỉnh tửu [giải rượu] (Nhật Hoa Tử Bản Thảo).
+ Tán hàn, giải biểu, thấu chẩn, chỉ huyết (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Giải biểu, khứ hàn, tán nhiệt, chỉ huyết (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Chủ trị:
Người bị chứng phong hàn ở biểu sợ lạnh sốt nóng, hoặc thời kỳ đầu của chứng sởi kiêm cảm mạo sợ lạnh. Người bị ngoại cảm mắt đỏ, họng đau, mụn nhọt sốt nóng sợ lạnh, cùng thổ huyết, chảy máu cam (sao đen sử dụng cầm máu) (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Cách dùng:
+ Dùng vào thuốc thì thường dùng cả hoa, lá, cành cây phơi khô. Nếu dùng làm thuốc phát hãn thì dùng sống. Nếu dùng làm thuốc chỉ huyết, lương huyết thì sao đen (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Kiêng kỵ:
+ Kiêng ăn cua, cá và thịt lừa, thịt cá lóc (Bản Thảo Cương Mục).
+ Phàm người biểu hư hay ra mồ hôi, huyết hư hàn nhiệt không do phong hàn gây nên, cùng chứng nhức đầu do âm hư hỏa vượng họng đau không phải ngoại cảm, đều phải kiêng kỵ  (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Biểu hư, tự ra mồ hôi, tỳ hư, tiêu chảy: khi dùng nên thận trọng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Người không có dấu hiệu ngoại cảm phong hàn thấp: không nên uống (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Kinh giới kỵ lửa và tương phản với các thứ cua biển, cá lóc, thịt lừa (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Đơn thuốc kinh nghiệm:
+ Trị chứng đầu phong, cổ cứng không quay được: Sau tiết thu tháng 8, dùng vải bọc hoa Kinh giới làm gối để gối đầu, hoặc trải ra giường nằm lên cũng được, nhưng đến tiết Lập xuân thì phải bỏ đi (Thiên Kim phương).
+ Trị miệng và mũi máu chảy dữ dội, do tửu sắc quá độ, hư hỏa đến cùng cực gây nên: Kinh giới, tán bột. Uống 8g với nước sắc Trần bì. Cùng lắm uống 2-3 lần là khỏi (Thánh Huệ phương).
+ Trị thổ huyết lâu ngày không khỏi: Kinh giới tươi, lấy cả gốc rễ, ngọn, rửa sạch, gĩa, vắt lấy nước cốt chừng ½ chén, uống với bột Kinh giới khô là khỏi (Thánh Huệ phương).
+ Trị phong nhiệt, đầu đau, họng đau: hoa Kinh giới, Thạch cao, 2 vị bằng nhau, tán bột, mỗi lần uống 12g với nước trà nóng (Vĩnh Loại Kiềm phương).
+ Trị phong nhiệt gây nên đau răng: gốc cây Kinh giới, Ô cửu căn, Thông bạch căn, 3 thứ bằng nhau, sắc kỹ, ngậm rồi nhổ đi thì khỏi (Y Học Tập Thành).
+ Trị 120 chứng phong hoặc kinh giản (động kinh) của trẻ nhỏ: Hoa kinh giới 80g, Bạch phàn 40g (nửa để sống, nửa phi). Tán bột, trộn với hồ làm thành viên, to bằng hạt Ngô đồng, dùng Chu sa bọc ngoài. Mỗi lần uống 10 viên với nước sôi, ngày 2 lần (Y Học Tập Thành).
+ Trị trúng phong không nói được: Hoa Kinh giới, tán bột, uống 8g với rượu là khỏi ngay (Kinh Giới Tán – Hội Công Đàm Lục).
+ Trị sản hậu bị trúng phong cấm khẩu, tay chân co duỗi liên tục, cơ thể uốn cong hoặc sản hậu bị huyết vận, bất tỉnh, tay chân cứng thẳng, mắt lệch, miệng méo, mắt trợn trừng, kèm thổ tả muốn chết: Hoa Kinh giới, cả hạt, đem bồi qua cho dòn, tán bột. Mỗi lần uống 12g với rượu ngâm đậu hoặc uống với nước Đồng tiện. Nếu cấm khẩu thì cậy miệng ra mà đổ thuốc vào. Hễ thuốc đổ vào được thì công hiệu như thần (Dũ Phong Tán – Hoa Đà).
+ Trị ghẻ lở: Kinh giới, tán bột. Lấy Sinh địa gĩa nát, nấu  thành cao, hòa với bột Kinh giới làm viên to bằng hạt Ngô đồng lớn. Mỗi lần uống 30 viên với nước trà xanh hoặc rượu (Phổ Tế phương).
+ Trị trẻ nhỏ bị phong hàn, bất tỉnh, phiền nhiệt có đờm; Hoa Kinh giới 20g, bồi khô, tán bột. Thêm ít Xạ hương, trộn đều. Mỗi lần uống 2g với nước trà. Người lớn dùng liều cao hơn (Phổ Tế phương).
+ Trị tiểu bí, bụng dưới sưng đau: Kinh giới, Đại hoàng, 2 vị bằng nhau, tán bột. Mỗi lần uống 12g với nước nóng. Nếu tiểu không thông thì Đại hoàng giảm bớt phân nửa. Nếu tiêu không thông thì Kinh giới giảm bớt phân nửa (Phổ Tế phương).
+ Trị sản hậu mệt mỏi, mê man do uất giận mới phát: Hoa Kinh giới, nửa sống, nửa sao, tán bột. Mỗi lần uống 8g với nước Đồng tiện. Nếu bị cong người như uốn ván thì dùng rượu làm thang, uống (Đái Nguyên Lễ Yếu Quyết phương).
+ Trị sản hậu bị huyết vận, hình như có cái gì che lấp ở trái tim gây nên uất kết, mắt trợn ngược, buồn phiền muốn chết: Hoa Kinh giới, tán nhuyễn, mỗi lần uống 8g với nước Đồng tiện pha với với ít rượu, rất công hiệu. Nếu không mở miệng ra được thì cậy răng đổ thuốc vào. Gần đây, các bậc danh y đều dùng bài này rất nhiều, không mấy bệnh là không hiệu nghiệm như thần (Đồ Kinh Bản Thảo).
+ Trị sản hậu bị huyễn vậng (chóng mặt) do huyết hư gây nên phong đến nỗi tinh thần mê man, tối tăm mắt mũi: Hoa Kinh giới 52g, Đào nhân 20g (bỏ vỏ và đầu nhọn đi), sao, tán bột. Mỗi lần uống 12g (Bảo Mệnh Tập).
+ Trị sản hậu bị kiết lỵ: Hoa Kinh  giới, 5 cái lớn, cho vào 1 cái bát, đậy kỹ, đốt cho cháy tồn tính, thêm ít Xạ hương, lấy nước đun sôi hòa vào cho uống. Bài này tuy nhỏ, không đáng bao nhiêu nhưng công hiệu của nó rất nhiều, đã từng trị biết bao nhiêu bệnh nặng, bệnh khó, không nên coi thường (Thâm Sư  phương).
+ Trị cửu khiếu ra máu: Kinh giới, nấu với rượu, ngậm (để chuyển ngấm khắp miệng) rồi nuốt dần là khỏi (Trực Chỉ phương).
+ Trị thổ huyết lâu ngày không khỏi: Kinh giới, tán bột. Dùng Sinh địa, gĩa nát, vắt lấy nước cốt, hòa với 8g bột Kinh giới, uống là hết (Kinh Nghiệm phương).
+ Trị tiểu ra máu: Kinh giới, Sa nhân, 2 thứ bằng nhau, tán bột. Mỗi lần uống 12g với nước cơm gạo nếp, ngày 3 lần (Tập Giản phương).
+ Trị phụ nữ bị băng huyết không cầm: Hoa Kinh giới, đốt trên ngọn đèn dầu mè cho khô, tán bột. Mỗi lần uống 8g với nước Đồng tiện. Đây là bài thuốc của Thái hậu Hạ Thái Quân (Phụ Nhân Đại Toàn Lương Phương).
+ Trị sản hậu chảy máu cam nhiều: Kinh giới, bồi khô, tán bột. Uống 8g với nước Đồng tiện (Phụ Nhân Đại Toàn Lương Phương trích của Hải Thượng Lương phương).
+ Trị đinh độc sưng đau, các chứng nhọt độc: Kinh giới 1 nắm, sắc với 5 chén nước còn 1 chén, chia làm 3 lần uống lúc nguội (Dược Tính Luận).
+ Trị các chứng phong làm mắt lệch, miệng méo (liệt mặt): Kinh giới (loại xanh) 1 cân, Bạc hà (tươi) 1 cân, tất cả cho vào cối đá, gĩa nát, dùng vải trắng sạch vắt lấy nước cốt rồi cho vào nồi đất hoặc nồi nhôm, nấu thành cao. Lại lấy phần bã gĩa, lấy 2 phần, bỏ đi 1 phần bã xấu. Đem 2 phần tốt đó phơi nắng cho khô, tán bột. Trộn với  cao đã nấu trước, làm thành viên, to bằng hạt Ngô đồng. Mỗi lần uống 15 viên với nước đun sôi, ngày 2 lần. Cần kiêng những thức ăn có tính động phong hỏa như cua biển, tôm, thịt mỡ, rượu (Kinh Nghiệm phương).
+ Trị trẻ nhỏ bị thoát giang: Kinh giới, Tạo giáp, 2 thứ bằng nhau, nấu lấy nước thật đặc, dùng để rửa. Rồi lấy sắt nung đỏ nhúng vào nước, lấy nước đó bôi. Bài này cũng trị được chứng tử cung sa (Kinh Nghiệm phương).
+ Trị trẻ nhỏ rốn sưng: Hoa Kinh giới nấu lấy nước đặc để rửa. Rồi dùng Hành nướng cắt mỏng để nguội cho nó hết hơi hỏa độc rồi dán vào chỗ đó là tiêu tan ngay (Hải Thượng Lương phương).
+ Trị ngón chân lở loét: Kinh giới gĩa nát, đắp vào chỗ đau (Giản Tiện phương).
+ Trị trĩ lậu sưng đau: Hoa Kinh giới, nấu nước thật đặc, hàng ngày dùng để rửa thường xuyên sẽ khỏi (Giản Tiện Phương).
+ Trị tiêu ra máu: Kinh giới 80g, Hoa hòe 40g, sao vàng sẫm, tán bột. Mỗi lần uống uống 12g với nước trà xanh (Giản Tiện Phương).
+ Trị bắp chân lở loét: Kinh giới đốt thành than, trộn với nước cốt Hành, bôi. Nhưng phải dùng Cam thảo nấu lấy nước, rửa rồi mới bôi thuốc vào (Trích Huyên phương).
+ Trị mọi chứng ở đầu,  mắt đau do lao huyết, phong khí gây nên đầu đau, chóng mặt: Hoa Kinh giới, tán bột, mỗi lần uống 12g với rượu (Long Mộc Luận).
+ Trị sản hậu bị trúng phong: Kinh giới tán nhuyễn, hòa với rượu uống. Công dụng như thuốc tiên (Dược Phẩm Vậng Yếu).
+ Trị sởi, mề đay, có thể dùng bài sau đây có kết quảù tốt:  Kinh giới tuệ 8g, Kim ngân hoa, Liên kiều, mỗi thứ 16g, Cát căn 12g, Bạc hà 4g, Cam thảo 3g, Thuyền thoái 2g, sắc nước uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Tham khảo:
+ Phụ nữ sản hậu đều lấy Kinh giới làm vị thuốc cốt yếu vậy (Đái Nguyên Lễ Yếu Quyết Phương).
+ Ông Chu Thủ Nhân ở huyện Võ Tiến nói rằng: Cái cổ của ông đau cứng không thể quay được, thế mà tôi dùng bài thuốc dưới đây mấy ngày là bớt. Nếu bị lở loét thối tha, dùng gốc cây Kinh giới 1 đoạn ở dưới gốc chẻ nhỏ, bỏ vào nồi nước nấu sôi kỹ, để hơi ấm rửa. Một lúc sau, xem chỗ lở nát có chỗ nào tím đen thì dùng kim khêu cho chảy máu độc ra, rồi lại rửa 3-4 lần nữa. Lại dùng Chương não, Hùng hoàng, 2 vị bằng nhau, tán bột, hòa với dầu mè, bôi vào chỗ chảy nước, ngày hôm sau lại rửa, lại bôi thuốc cho đến khi khỏi (Hoạt Pháp Cơ Yếu).
+ Kinh giới trị phong. Quan tướng quốc họ Cổ gọi là Tái Sinh Đơn, ông Hứa học sĩ cho là nó có công như thần như thánh; Ông Đái viện sứ cho rằng Kinh giới là thuốc chủ yếu của bệnh sản hậu; Ông Tiêu Tồn Kính gọi là một nắm vàng. Không phải vô cớ mà có những tên gọi như vậy. Tuy nhiên, khi dùng phải xét: người đời nay hễ gặp chứng phong liền dùng Kinh giới, Phòng phong là thuốc sơ khí, tán phong, sùng với nhau. Họ không biết rằng phong ở trong da, ngoài niêm mạc thì dùng Kinh giới làm chủ, không giống như Phòng phong nó chạy vào đến xương thịt của người ta  (Dược Phẩm Vậng Yếu).
+ Ngày xưa ông Giả Tự Đạo nói rằng, bài Kinh Giới Tán xuất xứ từ ‘Hội Công Đàm Lục’, trước sau đã dùng nhiều lần, rất công hiệu. Chính con tôi tên là Thuận bị bệnh trúng phong không nói được, nguy kịch đến nơi, thế mà uống bài này liền đỡ ngay, thật là quý vậy thay. Thật là bài thuốc vãn tử hồi sinh làm cho người ta chết sống lại được vậy (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Ông Lý Thời Trân nói rằng:  Bài Dũ Phong Tán đã được các sách đều khen ngợi là hay cả (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Kinh giới là 1 vị thuốc thánh  trong những bệnh về phong dược và về huyết cùng các chứng mụn nhọt ghẻ lở vậy (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+  Sức phát hãn của Kinh giới huệ mạnh hơn Kinh giới. Không có mồ hôi dùng Kinh giới huệ, có mồ hôi dùng Kinh giới sao; vào huyết phận dùng Kinh giới sao thành than  (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Kinh giới có tác dụng phát tán khử hàn như Ma hoàng, nhưng Ma hoàng lại mạnh mẽ, nhanh chóng, Kinh giới thì tương đối hòa hoãn. Vả lại Ma hoàng thiên về khứ hàn tà ở lưng thuộc kinh Thái dương, còn Kinh giới thì khứ hàn tà ở toàn thân (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Kinh giới có tên riêng là Giả tô, vì tính vị cay ôn, giống như Tử tô,  nhưng Kinh giới cay mà không gắt, ôn mà không táo, đúng là thuốc hơi cay, hơi ôn Cho nên người bị thương hàn, ôn bệnh thuộc cảm mạo, thì bất luận phong hàn, phong nhiệt đều có thể dùng được  (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Phân biệt:
+ Cây Kinh giới ở Việt Nam vẫn trồng để ăn, làm gia vị và làm thuốc (đã được xác định là Elsholtzia cristata Willd. cùng họ. Cây cũng thuộc loại thảo, cao 0,30 – 0,45m, thân nhẵn, mọc thẳng đứng. Lá mọc đối, phiến lá thuôn nhọn, dài 5 – 8cm, rộng 3cm, mép có răng cưa, cuống gầy dài 2 — 3cm. Hoa nhỏ, không cuống, màu tím nhạt, mọc thành bông ở đầu cành rất mau. Quả gồm 4 hạch nhỏ, nhẵn, dài 0,5cm.
+ Một cây khác cũng được gọi là Kinh giới và dùng làm thuốc là cây Origanum syriacum (Lour.) cùng họ (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
{tab=Thiên lý}
Thiên lý là một loại cây rất thân thuộc với người dân Việt Nam, là một cây thuốc quý không chỉ cho ta bóng mát hương thơm, là món ăn khá phổ biến trong các gia đình Việt Nam mà còn được dùng làm thuốc chữa bệnh trĩ và sa dạ con hiệu nghiệm.Thiên lý (còn gọi là câu hoa lý, hoa thiên lý, dạ lài hương) là một loại cây nhỏ, mọc leo, thân hơi có lông, nhất là ở những bộ phận còn non. Lá hình tim, thuôn, đầu lá nhọn, có lông trên các gân lá. Hoa khá to, nhiều, màu vàng xanh lục nhạt, rất thơm, thành xim tán, có cuống to, hơi có lông, dài 10-20mm, mang nhiều tán mọc mau liền với nhau.Cây Thiên lý được trồng khắp nơi ở Việt Nam, nhiều nhất tại miền Bắc để làm cảnh và lấy hoa, lá nấu canh ăn. Trong lá và thân Thiên lý có chất ancaloid (Đỗ Tất Lợi, Ngô Văn Thu, Hà Nội, 1962). Trong cuộc sống hằng ngày, người ta thường chỉ dùng hoa và lá Thiên lý non để nấu canh ăn cho mát và bổ. Lá tươi của cây Thiên lý chữa bệnh trĩ (lòi dom) rất công hiệu. Thầy thuốc đã chữa cho nhiều người khỏi bệnh, kể cả những người bị trĩ cấp độ 3 có búi trĩ lòi hẳn ra ngoài. Bài thuốc này đặc biệt công hiệu cho những người bị trĩ do nội nhiệt, do uống rượu bia nhiều dẫn đến đi ngoài có máu, rát hậu môn.Cách chữa trị như sau: Lá Thiên lý 100g (một nắm to), muối ăn 5g (thìa cà-phê). Hái lá Thiên lý non và lá bánh tẻ, rửa sạch, giã nhỏ với muối, thêm chừng 30ml nước đun sôi còn ấm, lọc qua vải gạc. Dùng nước này tẩm vào bông đắp lên chỗ dom đã rửa sạch bằng thuốc tím. Băng như đóng khố. Ngày làm một, hai lần. Kết hợp với uống 3 đến 4 bát nước lá Thiên lý tươi một ngày. Trong vòng 3 – 4 ngày thường khỏi. Bài thuốc này còn có thể chữa bệnh dạ con: cũng dùng như trên. Thường lưu ý: bắt buộc phải dùng tươi, không được nấu chín. Với những người cơ thể hàn thì không được uống mà chỉ đắp bên ngoài.
{tab=Cây đầu lân}
(Sala )Tên khoa học: Couroupita surinamensis Mart. ex Berg.Họ: Lộc vừng LecythidaceaeBộ: Sim MyrtalesCây có tên tiếng Anh là Cannon ball-tree hay Foul coconut tree, còn ở nước ta thường được gọi là cây sala – có người còn gọi là Sala song thọ, thường thì tín hữu Phật giáo sử dụng tên này; một tên thì căn cứ trên hình dáng nhụy hoa mà đặt: hàm rồng – tên này người miền Bắc thường hay gọi; còn một tên thì căn cứ trên hình dáng nguyên hoa mà đặt: ngọc kỳ lân – tên này thì giới sưu tập cây cảnh thường sử dụng.Cây được du nhập vào nước ta chủ yếu từ Ấn Độ, nguồn gốc của cây chưa được rõ ràng thường được cho xuất phát từ Ấn Độ hoặc Singapore Cây thường được trồng ở các chùa vì cây này thì liên quan đến một trong 04 sự kiện trọng đại trong cuộc đời của Ngài: Nhập Niết Bàn hay Nhập diệt nên rồi trồng nó cũng như là trồng cây bồ đề Kỳ lân là loại cây nhìn xa rất giống cây thông, hoa mọc thường xuyên và chi chít xung quang thân và có mùi thơm rất dễ chịu và bay xa nhưng trái của nó thì rất thúi. Nhưng khi bổ trái thúi này ra thì mới lấy được hạt để trồng, hạt này cũng phải thúi đi mới nảy được mầm lên cây. Quá trình này diễn tiến đúng theo chủ nghĩa phồn thực trong việc phát triển xã hội SINH – DIỆT – TÁI TẠO của Ấn giáo – Ấn độ, nơi phát tích Phật giáo.Cây sala đã có trong bài hát việt : cây sala người em xóm đạo…..và khá được ưa chuộng ở người mê cây phía nam , và miền tây nam bộ
{tab=Quả La hán}
Cây Bung lai
Theo Đông y, cây Bung Lai có tác dụng trị cảm lạnh, đau đầu, trướng bụng, tiêu hoá kém, tiêu chảy, viêm gan… Quả La hán có tác dụng nhuận phế lợi hầu, hóa đàm chỉ khái, nhuận tràng thông tiện, có tác dụng hữu hiệu trong chữa trị các bệnh liên quan đến đường hô hấp.
Để tốt cho gan và đường tiêu hoá, hàng ngày, bạn có thể dùng 15-30g Bung lai khô đun sôi và dùng nước uống thay trà. Để trị giun sán cho trẻ, bạn chỉ cần lấy lá Bung lai đem hơ sấy trên than rồi sắc lấy nước cho trẻ uống. Không chỉ có tác dụng trị những bệnh trên, cây Bung lai còn được dùng để thanh giải chứng sưng thũng vàng da, giải độc rắn cắn, trị sốt, thương hàn, chữa bệnh eczema và ghẻ ngứa.Cùng với cây Bung lai thì quả La hán cũng là một trong những vị thuốc quí trong Đông Y. Với vị ngọt, tính mát, không độc, La hán quả có tác dụng nhuận phế lợi hầu, hóa đàm chỉ khái, nhuận tràng thông tiện, có tác dụng hữu hiệu trong chữa trị các bệnh liên quan đến đường hô hấp.
– Để chữa viêm họng: La hán quả thái lát, sắc nước uống thay trà trong ngày
– Chữa mất tiếng: La hán 1 quả, thái lát, thêm lượng nước thích hợp sắc lên, chờ nguội, chia ra uống nhiều lần, mỗi lần một ít.
– Chữa ho gà: La hán 1 quả, hồng khô 25g, sắc nước uống; Hoặc dùng trái la hán 1 quả, phổi lợn 40g (bóp hết bọt), hầm chín, thêm gia vị vào ăn.
– Chữa ho khạc ra đờm vàng đặc quánh: La hán quả 20g, Tang bạch bì 12g, sắc nước uống trong 7-10 ngày.
– Bổ phế, hỗ trợ trong điều trị ho lao: La hán quả 60g, thịt lợn nạc 100g; hai thứ đều thái lát, thêm lượng nước thích hợp, hầm chí, thêm chút muối, ăn trong bữa cơm.
– Chữa táo bón: Dùng la hán quả sắc lấy nước, pha thêm mật ong uống trong ngày.
Trà La hán là thứ nước giải khát giàu dinh dưỡng, rất thích hợp với những người thể tạng nóng trong, đặc biệt là những người bị đái tháo đường hay béo phì. Uống quả La Hán trong mùa hè có thể trị say nắng, giảm nhiệt. Vào mùa Đông, dùng món này sẽ làm mềm và giữ ấm cổ họng.
{tab=Húng chanh}
Cây húng chanh còn có tên gọi khác là cây rau tần. Theo Đông y, húng chanh có vị chua the, thơm hăng, tính ấm, không độc, đi vào phế, có công dụng giải cảm, trục hàn, tiêu đờm, sát khuẩn, tiêu độc… Một số bệnh như ho do lạnh, ho do hen, các chứng cảm cúm, sưng đau do côn trùng đốt… đều có thể được cải thiện nhờ cây húng chanh.
1.Trị chứng lạnh phổi phát ho:
Lấy 20 – 30 gr lá húng chanh tươi rửa sạch sắc với 600 ml nước, còn 150 ml thì chia làm ba, uống trong ngày. Khi uống đun lên cho ấm, rất hiệu nghiệm.2.Trị chứng ho suyễn:
Lấy 12 gr húng chanh tươi, 10 gr lá tía tô tươi, rửa sạch hai thứ rồi sắc với ba bát nước. Khi sắc, cho thêm vài lát gừng. Còn một bát nước thì chia làm ba lần, uống trong ngày. Trong thời gian uống thuốc, nên kiêng ăn các chất tanh, lạnh, mỡ…3.Trị chứng cảm, cúm:
Lấy một nắm lá húng chanh, một nắm lá húng cay, đổ nước vào nồi đun thật sôi để xông. Và lấy 15 gr lá húng chanh đã phơi khô tự nhiên sắc với ba bát nước cùng vài lát gừng tươi, còn một bát chia làm ba, uống trong ngày.4.Trị chứng cảm hàn, ho, đau đầu, đau gáy, miệng đắng, sốt không ra mồ hôi:
Lá Húng chanh tươi 40 – 60g, rửa sạch, băm nhỏ, cho vào bát, đổ rượu trắng vào vừa xâm xấp, trộn đều, đậy kín.Nấu nồi nước xông thật sôi, khi nước sôi độ hai phút mới cho bát Húng chanh vào, đậy kín vung, nấu sôi, đem cho bệnh nhân xông; khi xông chùm chăn kín, sau đó lau khô mồ hôi, thay quần áo khác, nằm nghỉ ở chỗ kín gió.
Chú ý: chỉ dùng cho người lớn, không nên dùng cho trẻ em dễ bị bỏng5.Trị chứng sưng đau do bị côn trùng cắn, đốt:
Lấy lá húng chanh rửa sạch, nhai kỹ hoặc giã nát đắp lên vết cắn, đốt của côn trùng, rất hiệu nghiệm.
{tab=Quả trám}
Trám có 2 loại là trám trắng có vỏ màu xanh lục và trám đen màu tím thẫm. Quả trám vị chua, tính ấm, có tác dụng giải khát, thanh giọng, giải độc cá, giải say rượu mê man, nhức đầu.
Trám dùng làm thuốc thường là trám trắng. Cùi trám giàu đạm, đường, một số vitamin, đặc biệt đáng chú ý là vitamin C và các khoáng chất như canxi, phốt pho, kali, magne, sắt, kẽm…
Một số tác dụng chữa bệnh của quả trám:
– Về mùa đông, nếu đêm ngủ bị khô cổ và ho, gây mất giấc, dùng 20-30 quả trám trắng, bỏ hột, đập dập nấu nước uống. Có thể thêm gừng, đường hay mật để uống ban ngày.
– Nếu bị viêm họng cấp hay mãn, viêm amiđan, khô cổ, mất tiếng, dùng trám muối để ngậm hay pha nước uống. Có thể dùng trám tươi để hãm uống.
– Sốt cao, khô môi miệng, khát nước, nên giã quả trám lấy nước uống hàng ngày.
– Ho khản cổ, lấy trám tươi 4 quả bỏ hột, giã nát với huyền sâm 10 g thái lát. Cho vào nồi đất đổ ngập nước, nấu uống. Bài thuốc này có tác dụng tư âm, giáng hỏa, lợi yết hầu, thanh nhiệt giải độc, tiêu thũng.
– Kiết lỵ ra máu, dùng trám và ô mai lượng bằng nhau đốt thành tro. Ngày dùng 9 g uống với nước cơm.
– Ngộ độc cua cá, lấy trám trắng 30 g sắc nước uống. Cách này cũng dùng cho trẻ em lên sởi và chữa bệnh hoại huyết.
– Sâu răng, lấy quả trám đốt, tán nhỏ, trộn một ít xạ hương bôi vào chỗ đau. Phụ nữ mang thai tránh ngửi mùi xạ hương.
– Viêm tắc mạch máu, dùng quả trám trắng luộc ăn cái, uống nước hàng ngày, mỗi ngày 200 g. Liệu trình 1-2 tháng.
– Nẻ da do lạnh, cước, khô nứt môi chảy máu, lấy trám đốt thành tro, trộn mỡ lợn hoặc dầu thực vật bôi.
– Chữa ho, thanh nhiệt giải thử, dùng cho người luôn thấy miệng khô, hay khạc nước miếng, ôn bệnh nhiệt thịnh, phổi ráo, dùng trám tươi 5 quả bỏ hột, kim thạch hộc 5 g, thái nhỏ, rễ lau 5 g thái nhỏ, mã thầy 5 g gọt vỏ, lê gọt vỏ 2 quả, mạch đông 10 g, ngó sen 10 miếng. Tất cả nấu với 2 lít nước bằng lửa nhỏ 1 giờ. Để nguội lọc lấy nước uống hàng ngày.
– Để thanh nhiệt, dùng trám tươi 20 g bỏ hạt, rễ lau tươi 4 chùm thái nhỏ. Nấu với 0,5 lít nước trong 1/2 giờ, lọc nước uống. Trám tươi có tác dụng thanh phế, lợi hầu, khử hỏa, hóa đàm. Rễ lau thanh can nhiệt, vị nhiệt, sinh tân dịch, khỏi ho. Nên uống nóng.
– Muốn thanh tân, chỉ khát, giải nhiệt, thanh phế, lợi hậu, trị chứng hay nhổ nước bọt có khi có sợi máu, khó nuốt thức ăn, sưng họng, ho, buồn nôn, lấy cam 10 g, trám tươi 10 g (bỏ hột), ngó sen tươi 120 g, mã thầy 150 g, gừng tươi 6 g. Tất cả bỏ vỏ, giã nát cho vào vải sạch vắt lấy nước.
– Phòng chữa bệnh đường hô hấp trên như khi bị cảm cúm., dùng bài thuốc Thanh long bạch hổ gồm trám tươi (bỏ hột) 15 g đập dập, củ cải sống 250 g thái nhỏ. Dùng nồi đất ninh. Lấy nước uống thay trà, có thể ăn cái.
– Điều trị viêm họng khô rát, khản cổ, ho khan, lấy trám 3 quả, trà xanh 5 g, mật ong 20 g. Trám đập dập cho vào nồi đất đun 15 phút rồi rót vào cốc đã để sẵn trà, mật ong. Hãm 10-15 phút chờ nguội bớt, uống thay trà.
– Chữa động kinh, lấy trám trắng bỏ hột, đập dập, đun nhỏ lửa 30 phút, cho đường phèn đun thành cao. Pha uống ngày 2 lần, mỗi lần 1 thìa con.

{/tabs}

{tab=Húng quế}

Không chỉ là một loại rau gia vị đặc trưng trong ẩm thực, húng quế còn được coi là vị thuốc quý và dễ tìm trong Đông y.
Bữa cơm cuối tuần, bạn muốn thay đổi không khí cho cả nhà bằng món cuốn hấp dẫn với nhiều rau xanh, rau thơm, một ít thịt luộc, tôm. Trải bánh tráng ra, bạn cho lên đó rau xà-lách, bún, thịt… và không quên rải thêm vài lá rau tía tô, húng quế rồi cuộn lại. Bữa ăn đơn giản mà thật ngon miệng.
Nhiều người cho rằng, nếu gỏi cuốn thiếu hương vị cay cay, thơm nồng của húng quế, dường như đã mất đi một phần ngon. Rau gia vị này còn không thể thiếu trong nhiều món ăn quen thuộc của gia đình bạn như phở, tiết canh, dồi trường, gỏi vịt…
Bạn có tò mò, tự hỏi: Vì sao húng quế được ưa chuộng đến thế? Lương y Đinh Công Bản, Tổng thư ký Hội Dược liệu TP. HCM, bật mí: “Điều đó có thể bắt nguồn từ tác dụng chữa bệnh rất đa dạng của nó”. Mời bạn cùng chúng tôi tìm hiểu nhé.
Rau é có phải là húng quế hay không? Vì sao nó có mùi cay, hắc đặc trưng như vậy?
Húng quế còn có nhiều tên gọi khác như húng giổi, húng chó, rau é, é quế. Vị cay, hơi hắc có do húng quế có chứa nhiều tinh dầu.
Công dụng bất ngờ từ húng quế, Sức khỏe, hung que, cong dung hung que, an ung que, hung que chua benh, hung que,Không chỉ có công dụng chữa bệnh, húng quế còn giúp hạn chế muỗi, bọ mùa hè.

Húng quế là gia vị giúp món ăn ngon hơn?

Theo sách Từ điển cây thuốc Việt Nam, tiến sỹ Võ Văn Chi cho biết: Toàn cây chứa tinh dầu (0,02-0,08%), có hàm lượng cao nhất lúc cây đã ra hoa.
Tinh dầu húng quế có chứa chất chống ô-xy hóa mạnh có thể làm chậm quá trình lão hóa. Chúng còn giúp phòng một số bệnh ung thư, ngăn ngừa sự phát triển của một số vi khuẩn gây bệnh, chống viêm.
Ngoài ra, tinh dầu này còn có khả năng bảo vệ cơ thể trước sự tấn công của các yếu tố độc hại từ môi trường, thư giãn tinh thần, chống stress, trầm cảm và là một liệu pháp dưỡng da, dưỡng ẩm cho tóc.
Theo Đông y, vị cay, mùi thơm, tính ấm của húng quế có tác dụng kích thích sự hấp thụ, làm ra mồ hôi, lợi tiểu, mát máu, giảm đau.
Đông y xem húng quế là một vị thuốc quý. Vậy loại cây này có những tác dụng chữa bệnh thế nào?
Cành lá húng quế được dùng trị sổ mũi, đau đầu, đau dạ dày, đầy bụng, kém tiêu hóa, viêm ruột, tiêu chảy. Nó còn dùng để chữa kinh nguyệt không đều, làm giảm các chấn thương bầm giập, thấp khớp, tạng khớp. Mỗi ngày, bạn chỉ cần dùng 10-15g cây khô, sắc lấy nước để uống.
Lá tươi giã ra, đắp ngoài hoặc nấu nước rửa, trị rắn cắn, sâu bọ đốt, eczema, viêm da.
Nếu sau khi sinh, người mẹ không đủ sữa cho con bú, có thể lấy lá húng quế sắc nước uống, ngày dùng 2 ly. Lá húng quế có tác dụng kích thích tạo sữa rất tốt.
Nếu có cảm giác mệt mỏi, chán ăn sau ngày làm việc căng thẳng, bạn lấy lá húng quế ngâm vào nước sôi khoảng 10 phút để uống. Nếu khó uống, bạn có thể cho thêm một ít mật ong.
Hơi thở của bạn sẽ thơm tho hơn nếu chịu khó nhai sống lá húng quế.
Với hoa húng quế, bạn nên thu hoạch, phơi khô để dùng khi cần. Hoa tốt cho những người bị bệnh thần kinh, trẻ em ít ngủ, người lớn bị đau đầu, chóng mặt, đau bụng, viêm họng và ho, trẻ em ho gà. Cách đơn giản là bạn hãm một ít lá và hoa khô để lấy nước uống, mỗi ngày uống 3 ly.
Quả húng quế (Fructus Ocimi, thường gọi là hạt é) ăn để trị đau mắt đỏ, mờ đục giác mạc.
Lá, hoa, quả, hạt húng quế kết hợp với nhau là cách tốt nhất để chữa mẩn ngứa, dị ứng. Bạn chỉ cần giã nhỏ, lấy nước uống và lấy bã xát lên chỗ đau.
Ngoài ra, húng quế còn được nấu nước súc miệng và ngậm để chữa đau răng, sâu răng. Ngày dùng 10-25g lá tươi hoặc khô đều được…
Để tận dụng được khả năng chữa bệnh của húng quế, khi ăn, cần lưu ý gì?
Với những loại rau gia vị, bạn nên ăn sống. Khi chế biến các món như bò xào húng quế, nghêu xào húng quế… bạn nên cho vào khi gần bắc ra khỏi bếp để rau không chín quá, mất hết mùi vị đặc trưng.
Tôi nghe nói trồng xung quanh nhà các loại cây như tỏi, sả, cúc ngải… có tác dụng hạn chế muỗi. Húng quế có ưu điểm này không?
Không chỉ là gia vị, cây thuốc gần gũi với cuộc sống, húng quế cũng là một “kẻ thù” của côn trùng. Để đuổi muỗi, bạn có thể trồng húng quế xung quanh nhà.
Nếu trong nhà nhiều muỗi, bạn lấy vài lá húng quế, đốt trên lửa. Mùi hương này sẽ khiến muỗi nhanh chóng rút lui.

{tab=Rau răm}

Theo lương y Vũ Quốc Trung, rau răm có vị cay, tính ấm, thường được dùng chữa đau bụng do hàn (lạnh), chữa rắn cắn, chàm ghẻ, mụn, kích thích tiêu hóa, kém ăn, và cả làm dịu bớt cơn hưng phấn tình dục.
Chẳng hạn như: để chữa chứng tiêu hóa kém, mỗi ngày dùng 15-20g cả thân và lá của rau răm (rau còn tươi), rửa sạch, vắt lấy nước cốt uống. Để chữa rắn cắn (tình trạng nhẹ) thì lấy khoảng 20 ngọn rau răm đem giã nát, vắt lấy nước cốt uống, bã còn lại dùng đắp vào chỗ rắn cắn, trước khi đến bệnh viện khám. {tab=Rau mùi}
Rau mùi còn được gọi là ngò ta, có vị cay, tính ấm, giúp tiêu hóa thức ăn, trị phong tà, kiết lỵ, thông đại tiểu tiện, trị các chứng đậu, sởi khó mọc, phá mụn độc…
Ứng dụng thực tế như: để chữa tình trạng kiết lỵ, ta lấy một vốc hạt mùi đem sao vàng, tán nhỏ, mỗi lần dùng 7-8g bột này pha với nước, ngày uống 2 lần. Nếu lỵ ra máu thì uống với nước đường; lỵ có đàm thì uống với nước gừng, ngày cũng uống 2 lần như thế.
Còn để trị chứng loét niêm mạc lưỡi, dùng kết hợp rau mùi với rau húng chanh đem ngâm cả hai với nước muối pha loãng, rồi lấy ra nhai kỹ, nuốt lấy nước (nuốt từ từ và nhớ bỏ xác).

{tab=Ngò gai}
Còn gọi là ngò tây, mùi tàu. Theo đông y, mùi tàu có vị the, tính ấm, mùi thơm hơi hắc, thanh uế, kích thích tiêu hóa, mạnh tỳ vị…
Để chữa chứng đầy bụng, ăn không tiêu, dùng ngò gai 50g, kết hợp với một ít gừng tươi. Ngò gai cắt đoạn, gừng thì đập dập. Cho 2 thứ vào nồi đất cùng 300-400 ml nước, nấu còn lại còn phân nửa, chia làm 2 lần uống cách nhau 3-4 giờ trong ngày. Để chữa sốt nhẹ do cảm, dùng ngò gai 30g, thịt bò tươi 50g, cùng vài lát gừng tươi, đem nấu chín, dùng nóng.

{tab=Hạt Gấc}
Để chữa trĩ, có thể dùng hạt gấc giã nát, thêm một ít giấm thanh, gói bằng vải, đắp vào hậu môn để suốt đêm. Mỗi đêm đắp thuốc một lần.
Đông y gọi hạt gấc là “mộc miết tử” (con ba ba gỗ) vì nó dẹt, hình gần như tròn, vỏ cứng, mép có răng cưa, hai mặt có những đường vân lõm xuống, trông tựa như con ba ba nhỏ. Theo các sách cổ, nhân hạt gấc vị đắng, hơi ngọt, tính ôn, hơi độc, vào 2 kinh can và đại tràng, có tác dụng chữa mụn nhọt, tiêu thũng. Nó được dùng trong những trường hợp ngã, bị thương, sang độc, phụ nữ sưng vú, hậu môn sưng thũng. Hạt gấc có thể dùng uống (ngày 1 nhân nướng chín) nhưng chủ yếu là dùng bôi ngoài, không kể liều lượng.
Trong nhân dân, nhiều gia đình có thói quen để dành hạt gấc sống hoặc đã qua đồ xôi. Khi cần đến thì chặt đôi đem mài với ít rượu hoặc giấm thanh để bôi chỗ sưng tấy do mụn nhọt, sưng quai bị; bôi nhiều lần trong ngày, cứ khô lại bôi; rất mau khỏi. Có người giã nhân hạt gấc với một ít rượu, đắp lên chỗ vú sưng, đắp liên tục, ngày thay thuốc 1 lần, rất chóng khỏi.
Một số ứng dụng khác:
– Chữa chai chân (thường do dị vật găm vào da, gây sừng hóa các tế bào biểu bì ở một vùng của gan bàn chân, ảnh hưởng tới việc đi lại): Lấy nhân hạt gấc, giữ cả màng hạt, giã nát, thêm một ít rượu trắng 35-40 độ, bọc trong một cái túi nylon. Dán kín miệng túi, khoét một lỗ nhỏ rộng gần bằng chỗ chai chân, buộc vào nơi tổn thương, 2 ngày thay thuốc một lần. Băng liên tục cho đến khi chỗ chai chân rụng ra (khoảng 5-7 ngày sẽ có kết quả).
– Chữa sang chấn đụng giập trong những trường hợp bị ngã, bị thương, tụ máu: Dùng hạt gấc đốt vỏ ngoài cháy thành than (nhân bên trong chỉ vàng, chưa cháy), cho vào cối giã nhỏ, cứ khoảng 30-40 hạt thì cho 400-500 ml rượu vào ngâm để dự trữ dùng dần. Dùng rượu ngâm hạt gấc bôi vào chỗ sang chấn, có tác dụng tốt gần như mật gấu.

{tab=Cây dâu}

Trong Đông y, loãng xương thuộc phạm vi chứng “cốt nuy” có liên quan tới 3 tạng là thận, tỳ và can; trong đó, tạng thận có vai trò đặc biệt quan trọng. Về trị liệu, ngoài việc dùng thuốc, châm cứu, tập khí công dưỡng sinh, người xưa còn sử dụng nhiều món ăn – bài thuốc độc đáo.
1. Thể bệnh thận âm hư tổn: Lưng đau gối mỏi, hay buồn nhức các đầu ngón tay và chân, lòng bàn tay và bàn chân nóng, trong ngực chộn rộn không yên, môi khô miệng khát, thích ăn đồ mát, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ, chất lưỡi đỏ.
– Đậu đen 500g, sơn thù, bạch linh, đương quy, tang thầm, thục địa, bổ cốt chi, thỏ ty tử, hạn liên thảo, ngũ vị tử, kỷ tử, địa cốt bì, vừng đen, muối ăn mỗi thứ 10 g. Đậu đen rửa sạch, ngâm nước ấm trong 30 phút; các vị thuốc khác đem sắc kỹ 4 lần, mỗi lần chừng 30 phút. Trộn 4 loại nước lại với nhau, cho đậu đen và muối vào sắc kỹ bằng lửa nhỏ cho đến khi cạn kiệt. Lấy đậu đen ra phơi hoặc sấy thật khô, đựng vào lọ kín dùng dần; mỗi ngày ăn 20-30 g. Công dụng: Bổ thận dưỡng can, cường gân tráng cốt.
– Tang thầm tươi (quả dâu chín) 2.500 g, thục địa, hoài sơn, hoàng tinh mỗi thứ 50 g, thiên hoa phấn 100 g. Tang thầm rửa sạch, ép lấy nước cốt; các vị thuốc khác đem sắc kỹ lấy 500 ml dịch chiết rồi hòa với nước dâu, tiếp tục cô nhỏ lửa cho đến khi thành cao đặc. Đựng thuốc trong bình thủy tinh kín miệng để dùng dần, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 2 thìa canh. Công dụng: Bổ can thận, dưỡng khí huyết, làm mạnh gân cốt.
2. Thể bệnh can thận âm hư: Thể trạng gầy yếu, hay hoa mắt chóng mặt, thị lực giảm sút, tai ù điếc, lưng đau gối mỏi, móng tay và móng chân khô giòn, dễ bị chuột rút, tâm trạng phiền muộn, trong lòng hay bức bối không yên, lòng bàn tay và bàn chân nóng, có thể có gãy xương, miệng khô họng khát, lưỡi đỏ, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ.
– Tang thầm 30 g, kỷ tử 30 g, gạo tẻ 80 g. Các vị thuốc rửa sạch đem nấu với gạo thành cháo, chế thêm một chút đường phèn, chia ăn vài lần trong ngày. Công dụng: Tư âm, bổ can thận.
– Bột bạch linh, bột mỳ, bột xương dê, bột mẫu lệ và đường trắng lượng bằng nhau trộn đều, cho lượng nước vừa đủ, nhào thật kỹ, chế thêm mỡ và muối rồi nặn thành những chiếc bánh nhỏ, nướng chín, dùng làm đồ ăn điểm tâm hằng ngày. Công dụng: Bổ tỳ thận, làm mạnh gân cốt.
– Quy bản 100 g, vỏ trứng gà 100 g, đường trắng 50 g. Quy bản và vỏ trứng rửa sạch, để ráo nước rồi sao giòn và nghiền thành bột, cho thêm đường trắng, trộn đều, ăn mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 5 g. Công dụng: Bổ thận, kiện tỳ, làm mạnh gân xương.
3. Thể tỳ thận dương hư: Toàn trạng mệt mỏi, sợ lạnh, chân tay lạnh, lưng đau gối mỏi, ăn kém, chậm tiêu bụng chướng, đại tiện lỏng hoặc nát, có thể có phù nhẹ hai chân, nam giới liệt dương, di tinh, nữ giới kinh nguyệt không đều, miệng nhạt, chất lưỡi nhợt.
– Chim sẻ 5 con, kỷ tử 20 g, đại táo 15 g, gạo tẻ 60 g. Chim sẻ làm thịt, bỏ lông, chân và phủ tạng rồi đem hầm với kỷ tử và gạo tẻ thành cháo, chế thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày. Công dụng: Bổ thận, ôn dương, ích tinh, làm mạnh gân xương.
– Cá ngựa (hải mã) 50 g, dương vật và tinh hoàn bò 500 g, đan sâm 500 g, hoàng kỳ, a giao, hạch đào nhân, đường phèn mỗi thứ 250 g. Tinh hoàn và dương vật bò rửa sạch, thái miếng; cá ngựa sao khô tán thành bột mịn; a giao tẩm rượu sao phồng; hoàng kỳ và đan sâm sắc kỹ lấy nước cốt. Cho tất cả vào cô nhỏ lửa thành cao đặc, đựng vào lọ thủy tinh kín miệng để dùng dần, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 2 thìa canh. Công dụng: Bổ thận, tráng dương, ích tinh, cường gân, tráng cốt.
– Xương sống chó 200 g, đẳng sâm, thỏ ty tử, thục địa mỗi thứ 10 g, gia vị vừa đủ. Xương chó rửa sạch, chặt nhỏ; các vị thuốc cho vào túi vải buộc kín miệng; tất cả cho vào nồi hầm nhừ, chế đủ gia vị, dùng làm canh ăn hàng ngày. Công dụng: Bổ thận ôn dương, ích khí dưỡng huyết, cường gân tráng cốt.
– Tôm nõn 50 g, trứng gà 1 quả, rau hẹ 200 g, dầu thực vật và gia vị vừa đủ. Tôm rửa sạch, rau hẹ cắt đoạn, phi thơm hành mỡ rồi cho rau hẹ và tôm vào xào to lửa, khi gần chín đập trứng vào đảo đều một lát là được, dùng làm thức ăn hàng ngày. Công dụng: Bổ thận, ôn dương và làm mạnh gân cốt.
ThS Hoàng Khánh Toàn, Sức Khoẻ & Đời Sống ^
{tab=Cây bưởi}
Bưởi còn có tên là bòng, được trồng phổ biến để lấy quả ăn. Các bộ phận của cây được dân gian dùng làm thuốc chữa bệnh. Chẳng hạn, lá bưởi tươi thường được dùng nấu với nhiều lá thơm khác để xông, tắm chữa cảm cúm, nhức đầu rất có hiệu quả.
Các ứng dụng khác:
– Vỏ quả bưởi chữa ăn uống không tiêu, đau bụng, ho, ngày dùng 4 -12 g dưới dạng thuốc sắc.
– Vỏ hạt bưởi được dùng để cầm máu trong các trường hợp chảy máu, ngày dùng 4-10 g dưới dạng thuốc sắc.
– Nước ép múi bưởi được dùng làm thuốc chữa tiêu khát (đái tháo nhạt), thiếu vitamin C.
– Tầm gửi cây bưởi được dùng chữa các bệnh khớp, ăn uống khó tiêu.
– Chữa chốc đầu trẻ con: Hạt bưởi bóc vỏ cứng ở ngoài, xâu vào dây thép, đốt cháy thành than, nghiền nhỏ. Rửa sạch nơi chốc đầu, bôi bột thuốc này lên ngày 1-2 lần, điều trị 3-6 ngày là khỏi.
{tab=Quả vải}
Để chữa mụn nhọt, lấy múi vải giã nát với ô mai, tạo thành cao đắp lên mụn; hoặc lấy 5-7 múi vải giã nát với ít hồ nếp, dàn thành miếng cao, dán lên nơi mụn nhọt.
Vải còn gọi là lệ chi, được trồng nhiều ở nước ta, quả vải thu hoạch vào tháng 5-6, dùng ăn tươi hay sấy khô. Hạt vải (lệ chi hạch) thái mỏng phơi hay sấy khô được dùng làm thuốc. Trong hạt vải có tanin, độ tro, chất béo. Theo Đông y, hạt vải vị ngọt chát, tính ôn, có tác dụng tán hàn, chữa tiêu chảy ở trẻ em với liều từ 4-8 g dưới dạng bột hay sắc uống.
Phần áo hạt vải thường gọi là múi vải, thành phần chủ yếu là đường, ngoài ra có vitamin A, B, C. Vitamin A và vitamin B chỉ có trong múi vải tươi. Múi vải cũng là một vị thuốc trong Đông y, vị ngọt chua, tính bình, có tác dụng dưỡng huyết, làm hết phiền khát, chữa những bệnh mụn nhọt với liều 10-16 g múi khô. Ngoài ra, người ta còn dùng hoa vải, vỏ thân và rễ cây vải sắc lấy nước dùng súc miệng có thể chữa viêm miệng và đau răng.
Các đơn thuốc dùng múi vải và hạt vải:
– Chữa nấc: Vải cả quả đốt thành than, tán bột, hòa với nước nóng uống.
– Chữa đau răng: Vải cả quả thêm ít muối, đốt thành than, nghiền nhỏ, xát vào chỗ răng đau.
– Chữa tinh hoàn sưng đau: Hạt vải đốt thành than, nghiền nhỏ, hòa với rượu cho uống ngày 4-6 g. Hoặc: Hạt vải, trần bì, hồi hương 3 vị bằng nhau, tán nhỏ, ngày uống 4-6 g.
Có người sau khi ăn quả vải bị nôn nao, nổi mề đay, đau bụng, nôn mửa… Các triệu chứng đó không phải do vải mà do một loại nấm sống ở những núm quả vải bị dập nát, úng thối gây ra.

{/tabs}

{tab=Cây ớt}
Theo y học cổ truyền, ớt vị cay, nóng, có tác dụng tán hàn, tiêu thực, giảm đau… Dân gian thường dùng nó để chữa đau bụng do lạnh, tiêu hóa kém, đau khớp, dùng ngoài chữa rắn rết cắn…
Theo y học hiện đại, quả ớt có rất nhiều ích lợi cho sức khỏe. Chất capsicain trong ớt kích thích não bộ sản xuất ra chất endorphin, một morphin nội sinh có tác dụng giảm đau, đặc biệt có ích cho người bị viêm khớp mạn tính và ung thư. Ớt cũng giúp ngăn ngừa bệnh tim nhờ một số hoạt chất giúp máu lưu thông tốt, tránh tình trạng đông vón tiểu cầu. Ngoài ra, loại quả này còn giúp ngăn ngừa tình trạng huyết áp tăng cao. Một số nghiên cứu cho thấy, các loại ớt vỏ xanh, trái nhỏ có hàm lượng capsaicin cao hơn.
Một số bài thuốc Nam thông dụng có ớt:
– Chữa rụng tóc do hóa trị liệu: Ớt trái 100 g, ngâm với rượu trắng trong 10-20 ngày. Dùng rượu này bôi lên da đầu, có tác dụng kích thích mọc tóc.
– Giảm đau do ung thư, đau khớp: Ăn 5-10 g ớt mỗi ngày.
– Chữa ăn uống kém tiêu do ung thư: Ớt 100 g, hắc đậu xị 100 g, tán bột ăn hằng ngày.
– Chữa ăn uống chậm tiêu: Ớt trái dùng làm gia vị, ăn hằng ngày.
– Chữa đau thắt ngực: Ớt 2 quả, đan sâm 20 g, nghệ đen 20 g. Sắc uống ngày 1 thang.
– Chữa đau dạ dày do lạnh: Ớt 1-2 quả, nghệ vàng 20 g, tán bột uống ngày 2-3 lần.
– Chữa bệnh chàm (eczema): Lá ớt tươi 1 nắm, mẻ chua 1 thìa. Hai thứ giã nhỏ, lấy vải sạch gói lại, đắp lên nơi bị chàm đã rửa sạch bằng nước muối.
– Chữa rắn rết cắn: Lá ớt giã nhỏ, đắp vào nơi bị thương, băng lại. Ngày làm 1-2 lần cho đến khi hết đau, 2-3 giờ là khỏi.
– Chữa bệnh vảy nến: Lá ớt 1 nắm to (sao chín nhưng không cháy), tinh tre đằng ngà 1 bát, lá sống đời 7-9 lá, thiên niên kiện khoảng 300 g. Tất cả cho vào nồi với 2 lít nước, đun sôi kỹ, uống dần thay nước chè, uống chừng 3 ấm là khỏi.
– Đau bụng kinh niên: Rễ cây ớt, rễ chanh, rễ hoàng lực mỗi thứ khoảng 10 g. Sao vàng, sắc uống ngày 1 thang.
– Chữa đau lưng, đau khớp: Ớt chín 15 quả, lá đu đủ 3 cái, rễ chỉ thiên 80 g. Tất cả đem giã nhỏ, ngâm cồn với tỷ lệ 1/2, dùng để xoa bóp, sẽ mau khỏi.
– Chữa mụn nhọt: Lá ớt giã nát với ít muối, dùng đắp vào nhọt đang mưng mủ, sẽ bớt đau nhức, dễ vỡ mủ, mau lành.
– Chữa khản cổ: Dùng ớt làm thuốc súc miệng (dưới dạng cồn thuốc).
– Chữa rắn rết cắn: Lá ớt giã nhỏ, đắp vào vết thương cho đến khi hết đau nhức thì bỏ đi. Ngày đắp 1-2 lần cho đến khi hết đau. Thường chỉ 15-30 phút thì hết đau.

{tab=Dưa hấu}

Chữa hôi miệng
Nếu nguyên nhân gây hôi miệng là dạ dày bị nhiệt, có thể lấy chanh tươi 2-3 quả rửa sạch, cắt đôi, vắt lấy nước, hòa mật ong vừa đủ ngọt; mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 1-2 thìa canh.
Cũng có thể áp dụng các biện pháp sau:
– Dưa chuột (dưa leo) rửa sạch, gọt lấy vỏ, đun nước uống ngày 3 lần.
– Rễ cỏ lau tươi 100-200 g, đường phèn 30-50 g, rễ cỏ lau tươi rửa sạch, cắt thành từng đoạn bỏ trong bát, cho đường phèn vào một ít nước, hấp cách thủy, lọc bỏ bã, lấy nước uống thay chè.
– Vỏ chanh rửa sạch, nhai kỹ nuốt dần, ngày vài lần.
– Dưa hấu ép lấy nước uống.
Chữa hôi trong khoang miệng:
– Vỏ quýt 30 g rửa sạch, thái sợi, nấu thành nước uống hàng ngày.
– Hạt hoa quế 3 g, nấu nước, dùng súc miệng mỗi ngày vài lần.
– Quả vải khô 2-3 quả, bỏ vỏ, hạt, lấy cùi ngậm trước khi đi ngủ, sáng hôm sau nhổ đi, ngậm liên tục 10-15 ngày.
– Đu đủ 30 g, hoắc hương 6 g, đem sắc lấy nước súc miệng ngày 3 lần.
– Cau bổ thành từng miếng, ngậm dần trong miệng hàng ngày.
Chữa hôi miệng do đầy bụng khó tiêu
– Mơ xanh ướp muối, phơi khô, ngậm trong miệng sau bữa ăn.
– Lá cây đậu xanh 15 g, hoắc hương 10 g, sắc lấy nước, súc miệng ngày 3 lần.
– Quả lê bỏ vỏ, hạt, thái miếng mỏng, ngâm nước sôi để nguội trong nửa ngày, uống thay nước trong vài ngày liền.

{tab=Đậu đen}
Với những người bị bất tỉnh do say rượu, có thể lấy đậu đen sắc lấy nước, uống cho nôn ra thì khỏi. Còn nếu bị ngộ độc do ăn rau quả, nên lấy đậu đen tán nhỏ, ngâm rượu, chắt lấy nước cốt để uống.
Sau đây là một số bài thuốc Nam đơn giản có đậu đen khác:
– Trúng hàn (cảm lạnh): Đậu đen sao cháy; đang lúc còn nóng thì chế rượu vào uống, sau đó trùm chăn cho ra mồ hôi là khỏi.
– Bụng trướng do ăn nhầm các loại cá độc: Đậu đen sắc với nước uống lúc còn ấm.
– Ngộ độc nấm dại: Đậu đen 2 vốc cho vào ăn, uống hoặc sắc lấy nước uống.
– Trĩ ra máu: Dùng bồ kết sắc lấy nước để tẩm với đậu đen, để một lát rồi đem đậu sao vàng, xát bỏ vỏ, tán nhỏ. Lấy mỡ lợn để luyện thành viên bằng hạt ngô, mỗi lần uống 30 viên với nước gạo.
– Đau đầu: Đậu đen 3 phần sao hơi có khói, ngâm với 5 phần rượu, đậy kín 7 ngày rồi uống hết.
– Đau lưng, xương sống đau nhức quá không cử động được: Đậu đen 1 đấu, chia làm 5 phần: 3 phần sao, 1 phần luộc, 1 phần đồ chín. Thêm 3 đấu rượu cho vào bình, dùng nồi lớn đổ nước vào, chưng cách thủy nửa giờ. Để nửa tháng mới uống, uống nhiều hay ít tùy sức.
– Mất ngủ: Đậu đen rang nóng cho vào 1 cái túi đen để gối đầu, khi nguội lại thay.
– Tiểu đường: Đậu đen tán nhỏ, dồn vào một cái túi mật bò, phơi trong bóng râm 100 ngày, làm thành viên. Mỗi sáng uống 1 viên. Hoặc: Đậu đen, thiên hoa phấn lượng bằng nhau, tán nhỏ, khuấy hồ, làm thành viên bằng hạt ngô, mỗi lần dùng 70 viên, sắc với nước đậu đen uống mỗi ngày 2 lần.
{tab=Quả sung}
Sung thuộc họ dâu tằm (Moraceae), còn có tên là vô hoa quả, thiên sinh tử, ánh nhật quả, văn tiên quả, phẩm tiên quả, nãi tương quả, mật quả… Quả sung vị ngọt, tính bình, là một vị thuốc quý chữa được nhiều bệnh, cách làm đơn giản.
Viêm họng:
– Sung tươi sấy khô, tán bột rồi lấy một ít bột này thổi vào họng.
– Sung tươi gọt vỏ, thái phiến, sắc kỹ lấy nước, cho thêm đường phèn rồi cô nhỏ lửa thành dạng cao, ngậm hàng ngày.
Ho khan không có đờm: Sung chín tươi 50-100g gọt bỏ vỏ, nấu với 50-100g gạo thành cháo, chia ăn vài lần trong ngày. Có thể cho thêm ít nho khô hoặc đường phèn cho dễ ăn.
Hen phế quản: Sung tươi rửa sạch, giã nát, ép lấy nước cốt uống mỗi ngày 1 lần.
Viêm loét dạ dày tá tràng: Sung sao khô tán bột, mỗi ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 6-9g với nước ấm.
Tỳ vị hư nhược, rối loạn tiêu hóa: Sung 30g, thái nhỏ, sao hơi cháy, mỗi ngày lấy 10g hãm với nước sôi trong bình kín, sau 20 phút thì dùng được, chế thêm một chút đường phèn, uống thay trà trong ngày.
Kiết lỵ: Sung vài quả (nhiều, ít tùy theo tuổi), sắc kỹ lấy nước, chế thêm một chút đường rồi uống. Nếu không có quả sung thì có thể dùng lá sung tươi sắc uống.
Táo bón:
– Sung tươi 9g sắc uống hàng ngày.
– Sung chín ăn mỗi ngày 3-5 quả.
– Sung tươi 10 quả rửa sạch, bổ đôi, ruột già lợn một đoạn làm sạch thái nhỏ, hai thứ đem hầm nhừ, chế thêm gia vị, ăn trong ngày.
Trĩ xuất huyết, sa trực tràng:
– Sung tươi 10 quả đem hầm với một đoạn ruột già lợn cho nhừ rồi ăn.
– Sung tươi 6g, rễ thị 9g, sắc uống. Nếu không có quả, có thể dùng lá sung sắc lấy nước xông ngâm tại chỗ chừng 30 phút.
Sa đì: Sung 2 quả, tiểu hồi hương 9g, sắc uống.
Sản phụ thiếu sữa: Sung tươi 120g, móng lợn 500g, hai thứ đem hầm thật nhừ, chế thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày. Bài này có công dụng bổ khí huyết, làm ra sữa dùng rất tốt cho sản phụ sau sinh bị suy nhược, sữa không có hoặc có rất ít.
Viêm khớp:
– Sung tươi lượng vừa đủ đem hầm với thịt lợn nạc ăn.
– Sung tươi 2-3 quả rửa sạch thái vụn rồi tráng với trứng gà ăn.
Mụn nhọt, lở loét: Sung chín sao khô, tán bột rồi rắc lên tổn thương. Để đạt hiệu quả cao, trước đó có thể ngâm rửa tổn thương bằng nước sắc quả hay lá sung tươi, sau đó lau khô rồi rắc bột thuốc và băng lại.
Ngoài ra, nhựa của thân cây hay quả sung xanh còn được dân gian dùng để chữa mụn nhọt, bắp chuối và sưng vú. Cách làm: Rửa sạch vùng tổn thương, lau khô, dùng nhựa sung bôi trực tiếp vào nơi bị bệnh, sưng đỏ đến đâu thì bôi đến đó, bôi nhiều lần trong ngày. Để không phải bôi nhiều lần, có thể trộn nhựa sung với lá non, giã nát rồi đắp lên chỗ đau. Nếu mụn chưa có mủ thì đắp kín, nếu đã vỡ mủ thì đắp để hở một chỗ bằng hạt ngô. Khi đã có mủ muốn lấy ngòi ra thì giã thêm một củ hành với nhựa sung rồi đắp như trên, để hở miệng. Nếu sưng vú, đắp hở đầu vú.
Chữa đau đầu: Phết nhựa lên giấy bản rồi dán hai bên thái dương. Có thể phối hợp với việc ăn lá sung non hoặc dùng 5ml nhựa sung hòa trong nước đun sôi để nguội, uống trước khi đi ngủ.
{tab=Cà chua}
Lycopene không phải là chất duy nhất trong cà chua có khả năng chống ung thư tuyến tiền liệt, các nhà khoa học Mỹ khẳng định. Thực tế là nó chỉ phát huy hết tác dụng khi có sự hỗ trợ của một số chất khác trong thứ quả này.  Lycopene là chất đem lại cho cà chua màu đỏ đặc trưng. Từ lâu, nó đã được biết đến là “người thu dọn” các gốc tự do – kẻ thù số một phá hủy mô cơ thể và gây ung thư. Nhiều bằng chứng khoa học cho thấy, hàm lượng lycopene trong máu cao có liên quan đến nguy cơ mắc ung thư tuyến tiền liệt thấp.  Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu thuộc bang Illinois và Ohio (Mỹ), vừa khẳng định trong tạp chí của Viện ung thư Mỹ rằng, một mình lycopene không đủ hiệu quả để ngăn ngừa sự phát triển ung thư tuyến tiền liệt. Nó không tốt bằng việc ăn nguyên quả cà chua, trưởng nhóm John Erdman nhận định.  Thí nghiệm của Erdman như sau: cho những con chuột lang tiếp xúc với chất gây ung thư tuyến tiền liệt, sau đó nuôi chúng theo 3 chế độ dinh dưỡng khác nhau gồm: bột của nguyên quả cà chua, bột lycopene, và bột không chứa lycopene. Những con ăn bột không chứa lycopene được coi là nhóm đối chứng.  Kết quả ban đầu cho thấy, nguy cơ phát triển ung thư ở những con chỉ ăn bột lycopene tương đương với nhóm đối chứng. Nghĩa là việc dùng lycopene hay không cũng không thay đổi được tình hình trong giai đoạn đầu. Điều đáng ghi nhận ở giai đoạn này là nhóm ăn bột của nguyên quả cà chua giảm 26% so với nhóm đối chứng.  Khi kết thúc thí nghiệm, sự khác biệt mới thực sự rõ nét: bệnh ung thư tuyến tiền liệt đã tiêu diệt 80% số chuột trong nhóm đối chứng, 72% trong nhóm chỉ ăn bột lycopene. Nhóm ăn bột của nguyên quả cà chua có số tử vong thấp nhất, chỉ chiếm khoảng 62%.  Theo Erdman, điều này chứng tỏ lycopene có tác dụng chống ung thư, song một mình nó không đủ hiệu quả. Vẫn còn nhiều thành tố khác trong cà chua tham gia hỗ trợ.
{tab=Trái nhàu}
Các thảo dược cải lão hoàn đồng
Việc lựa chọn thực phẩm tác động rất lớn đến sức khỏe và tuổi thọ con người. Từ xưa, các thầy thuốc đã chú tâm tìm kiếm những loại cây cỏ giúp đẩy lùi tuổi tác, khiến con người trẻ lâu hơn. Khoa học ngày nay chứng minh, một số loại thảo dược có khả năng đó.
Lão hóa là một hiện tượng tự nhiên, không tránh được. Nhưng quá trình này rất khác nhau về thời gian và cách biểu hiện ở mỗi người. Có những người chưa nhiều tuổi nhưng cơ thể đã lão suy, lại có người sống đã lâu nhưng ,thân thể vẫn tráng kiện, tóc vẫn xanh. Bằng một lối sống tích cực và sử dụng thức ăn, dược phẩm hợp lý, con người có thể can thiệp vào quá trình lão hoá để nó đến chậm hơn.
Trong kho tàng Đông dược có rất nhiều cây cỏ được xem là thuốc trường sinh, cải lão hoàn đồng, bao gồm:
1. Sâm: Có 5 loại là nhân sâm, sa sâm, huyền sâm, đan sâm và tử sâm; mỗi loại bổ cho một số tạng phủ. Danh y Đào Hoằng Cảnh (452-536) cho rằng nhân sâm có tác dụng an thần, giảm xúc động và hồi hộp, làm sáng mắt, thanh thần, gia tăng trí năng, dùng lâu sẽ giúp tăng tuổi thọ. Lương y Tôn Tư Mạo (thế kỷ thứ 7) dùng nhân sâm để chữa chứng lãnh cảm hoặc hỗ trợ cho cô dâu bị thẹn thùng trong đêm tân hôn. Một cuốn kinh cổ Ấn Độ viết: “Nhân sâm làm nẩy mầm hạt giống mà người đàn ông gieo vào người đàn bà, để sinh ra đứa con trai có sức khỏe như bò mộng. Dược vật này đem đến cho con người sinh lực”.
2. Hoa: Cánh hoa đào của mùa xuân sau khi rụng được dùng làm phấn dưỡng da. Hoa cúc giúp mát gan tiêu độc, tiêu những mầm mụn trên da. Hoa sen giúp an định thần kinh. Hoa hòe làm bền chắc thành mạch, tránh những mảng xơ vữa…
3. Trái cây: Tương truyền, Dương Quý Phi nhờ ăn quả lệ chi (vải)mà giữ được làn da đẹp và nhan sắc làm say lòng người. Nhiều loại trái cây là những vị thuốc không thể thiếu trong việc bồi bổ, tăng cường sức khỏe như táo, sơn tra, bí đao, thanh trà, nhãn, mè…
Từ những huyền thoại và kinh nghiệm lưu truyền trong dân gian, các nhà khoa học đã nghiên cứu và khẳng định tác dụng chữa bệnh của nhiều loại thảo dược:
1. Trà: Trà xanh hay trà đen (trà ướp, trà tẩm) đều có tác dụng tốt cho sức khỏe khi dùng đều đặn mỗi ngày. Trà chứa các Polyphenol có tác dụng chống oxy hóa, loại trừ các gốc tự do là mầm mống gây hại đến các axit nhân của tế bào. Chính các gốc tự do này là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại bệnh tật mạn tính và sự lão hóa nhanh.
2. Nhân sâm: Có khả năng kích thích miễn dịch tế bào. Nó giúp cải thiện khả năng đáp ứng miễn dịch của các đại thực bào ở bệnh nhân viêm phế quản mạn tính, có vai trò trong việc ngăn ngừa và điều trị các rối loạn đường hô hấp. Dịch chiết nhân sâm có tác dụng hạ đường huyết trong bệnh tiểu đường. Loại thảo dược này cũng có tác dụng cải thiện tuần hoàn não và tác động tốt ở nhóm người lão hóa sớm.
3. Trái nhàu: Cung cấp nhiều dưỡng chất và giúp các thuốc khác tăng thêm tính hiệu quả. Trong trái nhàu có serotonin, rất cần thiết cho hoạt động tế bào; nếu thiếu chất này, tế bào sẽ thoái hóa dần.
4. Các loại hạt: Lạc, đậu nành, rau xanh, hạt hướng dương, hạt bí, hạt mè… có nhiều vitamin E. Đây là chất giúp tăng cường hệ thống miễn dịch, bảo vệ cơ thể an toàn trước dịch cúm, giảm bớt tác hại của khói thuốc lá…
5. Các loại rau củ quả: Chứa những thành phần hợp chất hữu cơ như Flavon, vitamin C, vitamin E…, có tác dụng chống lão hóa tế bào, giúp tăng cường tuổi thọ và phòng chống các bệnh nội khoa mạn tính, ung thư… Tốt nhất là các loại rau quả có màu đậm như nho đỏ, nho đen, rau xanh, bí đỏ, củ dền, cà rốt, cà chua, hạt hướng dương…
TS Nguyễn Thị Bay, Sức Khoẻ & Đời Sống ^
Nước cốt trái nhàu
Trên thị trường xuất hiện ngày càng nhiều loại sản phẩm mới về mặt hàng nước giải khát, nào là sâm dứa, trà sâm, sirô. Thế nhưng cần có một thức uống bổ dưỡng dùng để giải khát, mang nhiều tính năng tác dụng tăng cường sức khỏe nhưng vẫn giữ được khả năng hữu hiệu của phương thuốc dân gian mà không làm mất đi tính năng của nó.
Mới đây cơ sở Hương Thanh vừa nghiên cứu sản xuất thành công một thể loại thức uống giải khát mới: Nước cốt trái nhàu mật ong.
Nguyên liệu chính để sản xuất là: Nước cốt trái nhàu phối hợp với mật ong nguyên chất.
Đã từ lâu, cây nhàu đã được người dân Việt Nam biết đến và coi đó như là một phương thuốc dân gian dùng để cha các chứng bệnh đau mỏi, nhức lưng. Đến năm 1994 khi Viện đại học Hawai công bố công dụng của trái nhàu, thì ở Mỹ cây nhàu đã được trồng thành những đồn điền và khai thác triệt để và nó được coi như là một thần dược ở Mỹ. Theo tài liệu cho biết nước cốt trái nhàu chứa chất đường (Polysaccharide-rich-subtance) và một số hoạt chất khác, có hoạt tính ngăn chặn quá trình phát triển của bệnh ung thư, chống ung thư phổi; chống khối u mẫu màng bụng; trị đau nhức; tiểu đường; huyết áp cao; trị táo bón; trị nghẽn ruột. Rễ cây nhàu sắc uống trị đau lưng, trị các vết thương lở loét, nhiễm trùng; sốt kiết lî, trị bệnh gan v.v. ngoài ra còn là thần dược của phái nữ, làm tăng sắc đẹp cho da, chống lão hóa da và tăng tuổi thọ.
Tháng 8 vừa qua, tại hội chợ triển lãm chất lượng hội nhập lần I do Tổng cục đo lường chất lượng phối hợp tổ chức, sau khi tham gia dự thi chất lượng sản phẩm, nước cốt trái nhàu đã được trao cúp vàng chất lượng về sản phẩm.
Trong một thời gian ngắn sau khi sản phẩm được bán ra thị trường đã được người tiêu dùng chấp nhận và nhiều ý kiến cho biết nước cốt trái nhàu – mật ong có tác dụng giải khát, tăng cường sức khỏe, an toàn cho người sử dụng. Qua thử nghiệm sử dụng ở nhiều người thấy: hương vị phù hợp, không gây mất ngủ, đặc biệt thích hợp cho những người làm việc ở ngoài trời nắng gắt, và làm việc căng thẳng quá sức, ngoài ra nó còn có tác dụng ngăn chặn sự lão hóa da, phục hồi những làn da bị sạm nắng một cách nhanh chóng, hạn chế ngăn chặn quá trình phát triển bệnh ung thư, kích thích miễn dịch để bảo vệ cơ thể.
Sản phẩm độc đáo này đã có mặt trên thị trường mang tên nước cốt trái nhàu – mật ong do cơ sở Hương Thanh sản xuất, địa chỉ liên hệ: 441/19/28 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phường 1, Quận Gò Vấp, TPHCM.
Uống nước cốt trái nhàu xanh chữa bệnh đường tiêu hoá
“Gần đây, tạp chí Tri Thức Trẻ có đăng công dụng của cây thuốc nhàu, trong đó có công dụng đối với đường tiêu hoá. Xin cho cháu biết cách sử dụng cây nhàu. Cháu nên dùng bao lâu mới khỏi bệnh viêm đại tràng mạn tính và mua trái nhàu xanh ở đâu?”.
Trả lời:
Đối với bệnh viêm đại tràng mạn tính, cháu có thể dùng nước cốt quả nhàu để uống, bởi cây nhàu có rất nhiều tác dụng. Người ta dùng cả thân, rễ, lá và quả nhàu để chữa bệnh:
– Rễ và thân cây nhàu có tác dụng hạ huyết áp nhẹ, giảm đau.
– Lá nhàu dùng tẩm bổ cho phụ nữ mới sinh.
– Quả nhàu có tác dụng giảm đau, an thần nhẹ, nhuận tràng, giúp tiêu hóa tốt, ăn uống ngon miệng hơn, chữa bỏng, mụn nhọt.
Cháu nên:
– Uống khoảng 100 ml nước cốt trái nhàu vào buổi sáng, vào lúc đói bụng để không làm tổn thương enzym.
– Dùng trái nhàu xanh uống tốt hơn lúc nó chín vì dễ uống và chứa nhiều hoạt chất.
– Chú ý kiêng uống rượu, trà, cà phê khi dùng nhàu.
Hiện nay, trên thị trường thuốc đã có sản phẩm mới, Morinda Citrifola do Công ty Xuất nhập khẩu y tế Đồng Tháp sản xuất từ cao trái nhàu và được nén dưới dạng viên nang và viên bao phim. Cháu có thể tìm mua ở các hiệu thuốc ở Hà Nội. Ngoài ra, cháu cần quan tâm hơn đến chế độ ăn uống, nghỉ ngơi sao cho phù hợp. Điều này rất quan trọng trong điều trị viêm đại tràng.
{tab=Mướp đắng}
Bệnh đái tháo đường type 2 – loại không phụ thuộc insulin – thuộc phạm vi chứng tiêu khát, với triệu chứng ăn, uống và tiểu tiện nhiều. Những thảo dược như hành tây, mướp đắng, nhân sâm… rất hiệu quả trong điều trị bệnh, do có tác dụng hạ đường máu. Một số thảo trị đái tháo đường type 2: Bạch truật: các hoạt chất atractan A, B và C trong bạch truật có tác dụng hạ đường máu. Bài thuốc gồm bạch truật 12 g, hoàng kỳ 65 g, đảng sâm 25 g, hoài sơn 15 g, phục linh 12 g. Sắc uống ngày 1 thang. Mỗi đợt điều trị 2 tháng. Cam thảo đất: hoạt chất amellin trong cam thảo đất có thể làm giảm đường máu và các triệu chứng của bệnh đái tháo đường type2, khiến cho quá trình giảm nồng độ đường máu và nước tiểu diễn ra dần dần. Nó còn làm tăng mức dự trữ kiềm bị hạ thấp ở người bệnh nhân và giảm hàm lượng các chất tạo ceton trong máu. Câu kỷ: có tác dụng hạ đường máu và ức chế men aldose reductose – men gây tích lũy sorbitol trong tế bào sinh ra biến chứng nghiêm trọng của bệnh đái tháo đường như bệnh về võng mạc, thần kinh và thận. Bài thuốc: câu kỷ 12 g, thục địa 20 g, hoài sơn 20 g, thạch hộc 12 g, mẫu đơn bì 12 g, sơn thù 8 g, rễ qua lâu 8 g, sa sâm 8 g. Sắc uống ngày 1 thang. Hành tây: có tác dụng dự phòng sự tăng đường máu. Trên lâm sàng, những bệnh nhân được uống dịch ép hành tây đã giảm đường máu đáng kể. Bệnh nhân cần uống dịch ép hành tây, mỗi buổi sáng một thìa canh, uống liền trong 1-2 tháng sẽ có hiệu quả. Mướp đắng: khi còn xanh, mướp đắng chứa các hoạt chất charantin, glycosid steroid, có tác dụng hạ đường máu, làm chậm sự phát triển các bệnh về võng mạc và đục thủy tinh thể và làm tăng khả năng dung nạp glucose của người bệnh. Mướp đắng còn có tác dụng chống oxy hóa, loại bỏ gốc tự do – một trong những nguyên nhân gây đái tháo đường. Bài thuốc: dùng quả mướp đắng còn xanh, thái mỏng, phơi nắng cho khô, tán thành bột mịn. Mỗi ngày uống 12-20 g, chia làm 2-3 lần, sau bữa ăn, chiêu với nước. Sau khoảng 2 tháng, khi đường máu hạ xuống gần mức bình thường, giảm liều thuốc xuống một nửa và duy trì. Nhân sâm: có khả năng hạ đường máu và hiệp đồng với thuốc hóa dược. Nếu dùng nhân sâm phối hợp với thuốc hóa dược thì có thể giảm bớt liều thuốc này, thời gian hạ đường máu được kéo dài hơn. Bài thuốc: nhân sâm 15 g, thiên môn 30 g, sơn thù 25 g, câu kỷ 15 g, sinh địa 15 g. Sắc riêng nhân sâm và cô thành 30 ml cao, sắc chung 4 dược liệu còn lại và cô thành 170 ml cao lỏng, trộn lẫn hai cao này. Mỗi lần uống 20 ml, ngày dùng 2-3 lần trước bữa ăn. Sinh địa: chứa hoạt chất hạ đường máu là các glycosid iridoid A, B, C và D. Nó cũng có tác dụng làm chậm sự phát triển biến chứng đục thể thủy tinh ở mắt và giảm các triệu chứng bệnh thần kinh ngoại biên ở người bệnh. Các bài thuốc liên quan:  – Sinh địa 800 g, hoàng liên 600 g. Giã sinh địa vắt lấy nước, tẩm vào hoàng liên, phơi khô rồi lại tẩm, làm như vậy cho đến hết nước sinh địa. Tán nhỏ hoàng liên, làm thành viên. Mỗi lần uống 10 g, ngày dùng 2-3 lần.  – Sinh địa, hoài sơn, phục linh, mỗi vị 15 g, sơn thù, trạch tả, ngưu tất, mỗi vị 10 g. Hạt mã đề, mẫu đơn bì, mỗi vị 6 g. Sắc uống ngày một thang.

{tab=Nước Chanh}
Theo các nhà khoa học Australia, có bằng chứng rõ ràng cho thấy nước chanh là sát thủ đáng gờm của tinh trùng và HIV. Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm chỉ ra rằng, dung dịch nước chanh 10% làm giảm đáng kể hoạt tính của của HIV. Hơn thế nữa, 1/2 thìa cà phê nước chanh còn tiêu diệt được 2 thìa cà phê tinh trùng chỉ trong vòng 30 giây.
Ông Roger Sort – người dẫn đầu nghiên cứu, chuyên gia sinh lý học về sinh sản, Đại học Melbourne – cho rằng, tính axit cao là bí quyết giúp nước chanh loại trừ được HIV và tinh trùng. Theo ông, chanh vỏ vàng và vỏ xanh đều có tác dụng như nhau. Ưu điểm nổi bật của loại quả này là rất rẻ tiền.
Theo các tác giả, nếu những nghiên cứu tiếp theo trên người và động vật linh trưởng thành công, một ngày nào đó, nước chanh có thể trở thành thuốc tránh thai lý tưởng cho phụ nữ ở những nước nghèo. Chanh cần được vắt vào miếng xốp hoặc mẩu bông đã thấm nước và đặt vào âm đạo người phụ nữ trước khi quan hệ. Điều này không hề gây đau đớn cho chị em.
Tuy nhiên, các chuyên gia về AIDS cảnh báo là tới nay, người ta vẫn chưa hay biết gì về độ an toan và tính hiệu quả của việc sử dụng nước chanh vì mục đích chống HIV ở con người. Còn chưa rõ, nước chanh có gây hại trực tiếp cho âm dạo và tử cung, cũng như ảnh hưởng gián tiếp tới vi khuẩn sống ở âm đạo hay không.
Nhóm nghiên cứu dự định tiến hành thử nghiệm trên khỉ macaca ở Indonesia.
Theo ông Sort, dùng chanh để làm thuốc tránh thai không phải là ý tưởng mới. Nó rất phổ biến từ 300-400 năm trước tại vùng Địa Trung Hải và sau đó đã dần bị lãng quên.

{/tabs}
{tab=Quả lê}
Cây lê được trồng nhiều ở các tỉnh Lạng Sơn, Lào Cai, Thái Nguyên. Có hoa vào mùa xuân, thu hái quả vào mùa thu. Nó là một trong số rất ít loại quả chín sau khi thu hái. Lê được bày bán ở nhiều nơi hiện nay là lê nhập từ Trung Quốc.
Theo tài liệu cổ, quả lê có vị ngọt, hơi chua, tính lạnh, không độc, vào các kinh phế, vị. Có công dụng nhuận phổi, mát tim, tiêu đờm, giáng hỏa, giải khát. Chữa đờm nhiệt sinh ho (nấu cao để điều trị ho), đại tiện bí kết… Theo y học cổ truyền; quả lê dùng để chữa một số bệnh sau:
Nhuận phổi trị ho: Dùng khoảng 100g lê tươi cắt vụn, cho nước vào nấu nhừ, vắt bỏ bã, nước đem cô đặc thành cao lỏng, thêm một ít đường phèn vào trộn đều cho đủ ngọt, chia làm 3 – 4 lần uống trong ngày sẽ mau khỏi ho.
Ở Trung Quốc, người ta còn chế nhiều loại cao lê khác nhau để điều trị ho. Đơn cử một loại cao lê với tên “Thu lê đường” bào chế như sau: Lê mùa thu: 20 quả, gừng tươi: 0,2kg, táo tàu: 1 kg, ngó sen: 1,5kg. Các thứ trên thái nhỏ đem nấu lấy nước cô thành cao, cho tiếp 0,25 kg đường phèn và thêm một ít mật ong chế thành cao lỏng.
Chữa bỏng: Dùng quả lê tươi, lấy dao sạch cắt thành từng lát mỏng đắp lên chỗ bỏng thì hết đau và không bị loét da.
Giải độc rượu: Quả lê tươi đem gọt bỏ vó, cắt thành từng miếng vừa ăn, cho người uống rượu say ăn vào sẽ mau dã rượu giải độc.
Chữa nôn nấc, khó nuốt: Lấy một quả lê gọt bỏ vỏ, khoét bỏ lõi, nhét vào đấy 15 hạt đinh hương, dùng lá rau gói bọc kín lại, đem nướng chin (hoặc hấp), khi ăn bỏ đinh hương đi, chỉ ăn lê sẽ hết bệnh. Về phương diện dinh dưỡng, một quả lê (khoảng 250g) cung cấp cho cơ thể 98 kilôcalo, 25g gluxit, và một lượng đáng kể vitamin C(11%). Đặc biệt lê chứa một lượng lớn pectin (nhiều hơn cả táo) – một loại chất xơ thực phẩm hòa tan được. Nhờ có nhiều pectin lê trở thành món ăn có tác dụng hạ mức cholesterol trong máu. Pectin dễ tan trong nước, khi đi qua ruột tạo ra thể đông (gel) giữ muối mật trong lớp chất nhầy không cho nó quay trở vào máu . Cơ thể luôn luôn có chức năng sản xuất loại muối mật để bù vào lượng muối mật mất đi mỗi ngày. Nguyên liệu mà cơ thể cần để tổng hợp ra muối mật chính là cholesterol – do đó pectin có nhiều trong lê gián tiếp tham gia vào việc làm giảm hàm lượng cholesterol trong máu, rất tốt cho những ai đang điều trị bệnh tăng cholesterol huyết. Nhờ có nhiều pectin, lê còn góp phần làm tăng độ xốp mềm của bã thải tiêu hóa chống táo bón.
{tab=Mướp}
Mướp và nếp nhăn da
“Em đọc báo thấy nói mướp chữa được nhiều bệnh, đặc biệt là xóa nếp nhăn trên da. Xin bác sĩ cho biết cách bào chế và sử dụng như thế nào?”.
Trả lời:
Theo Đông y, mướp giúp làm giảm hay làm mất nếp nhăn ở da mặt. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu và báo cáo kết quả của mướp trong việc giải quyết những nếp nhăn trên da, cũng chưa thấy có dạng kem bào chế nào sử dụng mướp để bôi da. Trước mắt, để có thể hạn chế nếp nhăn ở da mặt, bạn cần tránh nắng, không lo âu suy nghĩ nhiều, ăn thêm nhiều rau cải, trái cây tươi, massage mặt mỗi đêm trước khi đi ngủ.
{tab=Mồng tơi}
– Rau mồng tơi 500 g, cho mắm, muối, tương, giấm nấu thành canh ăn cơm hằng ngày. Sử dụng vài ngày là đại tiện sẽ thông, không còn táo bón.
– Lấy 30 g rau mồng tơi, gà mái già 1 con (bỏ đầu, chân, nội tạng), hầm gà chín, cho mồng tơi vào, nấu thêm 20 phút bắc ra là ăn được. Đây là món chữa chứng đại tiện xuất huyết kinh niên.
– Dùng khoảng 100 g mồng tơi sắc nước uống trong ngày thay trà chữa tiểu tiện không thông, đái dắt, đái nhỏ giọt.
– Mồng tơi 60 g sắc lấy nước đặc, hòa thêm chút rượu trắng, uống khi nước còn ấm có tác dụng chữa chứng ngực bồn chồn, đầy tức.
– Mồng tơi cả cây khoảng 100 g, móng chân giò 1 cái, hầm với nước và rượu. Ăn trong bữa cơm hằng ngày có tác dụng chữa khớp chân tay đau nhức do phong thấp.
Ngoài ra, phụ nữ sau khi sinh ít sữa, ăn rau mồng tơi sẽ nhiều sữa hơn. Mồng tơi tươi giã nát rồi lấy bông thấm vào nước cốt nhét vào lỗ mũi chữa chảy máu mũi do huyết nhiệt (chảy máu cam). Dùng mồng tơi giã nát, lấy nước bôi lên chỗ da bị bỏng sẽ mau lành. Mồng tơi trộn với đường phèn, giã nát, đắp vào chỗ bị thương sẽ giúp cầm máu, vết thương mau lành.
{tab=Rau má}
Rau má có vị hơi đắng, thơm, tính mát, có tác dụng giải nhiệt, lợi tiểu, tiêu viêm, sát trùng, cầm máu…Người ta thu hái loại rau má bánh tẻ, cả lá và dây, rửa sạch, làm món rau sống trong bữa ăn; hoặc có thể giã nát (hoặc xay) vắt lấy nước, bỏ thêm ít đường uống giải nhiệt, giải khát trong những ngày nắng nóng.Nước rau má.Rau má đem luộc chín, ăn để chữa tiểu tiện đục, sỏi thận, sỏi bàng quang, ngày dùng 40-50g tươi.Rau má còn để chữa sốt, bệnh gan, thổ huyết, chảy máu cam, tả lỵ, khí hư, bạch đới; ngày dùng 30-40h tươi, giã nát vắt lấy nước hoặc sắc lấy nước uống.Phụ nữ có kinh đau bụng, đau lưng dùng rau má phơi khô tán nhỏ, ngày uống 1 lần vào buổi sáng, mỗi lần 2 thìa cà phê, chiêu với nước.Khi bị rôm sảy, mẩn ngứa dùng rau má tươi trộn dầu, giấm, ăn hàng ngày hoặc giã nát vắt lấy nước uống.Nhiều tác giả nghiên cứu cho thấy hoạt chất của rau má là những saponin (axit Asiatic, axit brahmic) có tác dụng giúp các mô liên kết tái tạo nhanh chóng làm các tổn thương mau lành và lên da non.Rau má chế thành dạng cao khô rồi bào chế thành dạng viên nén 0,01 dùng chữa bệnh giãn tĩnh mạch, chứng nặng chân do máu ở tĩnh mạch chân chậm trở về tim, ngày uống 3-6 viên vào bữa ăn.Dạng thuốc mỡ (1% cao rau má) hoặc thuốc bột để chữa vết bỏng, vết thương, các tổn thương ở da và niêm mạc (tai, mũi, họng).
{tab=Trái cây khác}
LONG NHÃN: có thể trị nhiều chứng bịnh: ^
a.- Buổi sáng, 11 giờ, ăn 10 trái long nhãn, trị chứng đầu óc tăm tối và đầy ứ.b.- Buổi trưa, sau khi dùng cơm, ăn 20 trái long nhãn, trị chứng dùng óc quá độ, con mắt mệt mỏi, nghẹt mũi, sổ mũi, cận thị, tứ chi bải hoãi.c.- Buổi chiều, khoảng 4 giờ, ăn 30 trái long nhãn trị chứng bịnh thiếu máu (bần huyết).d.- Buổi tối, khoảng 7 giờ, ăn 40 trái long nhãn, có thể trị được chứng thiếu máu trầm trọng (không nuốt bả vì ăn nhiều bả sẽ làm tổn thương đến dạ dày).
TRÁI VẢI: trị được 11 chứng bịnh:
a.- Buổi sáng, 10 giờ, ăn 10 trái vải có tác dụng bổ khí, thông máu, bổ và thanh lọc máu, nặng đầu mỏi mắt.b.- Buổi trưa, sau bữa cơm 12 giờ rưởi, ăn 8 trái vải, trị được chứng sổ mũi và nghẹt mũi.c.- Buổi chiều, 4 giờ, dùng 8 trái vải trị bịnh áp huyết cao.d.- Buổi chiều, 5 giờ, dùng 8 trái vải trị chứng tứ chi bải hoải.e.- Buổi tối, 8 giờ, dùng 8 trái vải, giải trừ được sự mệt mỏi trong ngày.
QUẢ TÁO (APPLE): trồng nơi xứ lạnh, bản chất của nó thuộc hàn nên có thể trị được hỏa khí:
a.- Buổi sáng, 10 giờ, ăn 1 quả, trị chứng gan nóng (hỏa can).b.- Buổi trưa, 2 giờ, ăn 1 quả, trị chứng nóng ở vị tạng.c.- Buổi chiều, 5 giờ, ăn 1 quả, trị chứng nóng ở ruột già. ^
DƯA HẤU: trị chứng cảm mạo vào mùa Hạ. Buổi sáng không nên dùng, ngoại trừ các thể tháo gia.
a.- Sau khi ăn cơm trưa, ăn 1 miếng nhỏ dưa hấu có thể trị chứng trúng gió, cảm mạo.b.- Buổi trưa, 2 giờ, ăn 1 miếng nhỏ dưa hấu thoa bột cam thảo trị chứng đau cuống họng.c.- Buổi chiều, 4 giờ, ăn 1 miếng dưa hấu nhỏ thoa với mật ong trị được bịnh cao máu (trẻ em không được dùng phương này).d.- Buổi chiều, 5 giờ, ăn 1 miếng dưa hấu thoa đường trắng để thanh lọc máu.e.- Buổi tối, 8 giờ, ăn 1 miếng nhỏ dưa hấu thoa muối, trị bịnh ăn uống không tiêu.f.- Buổi tối, 10 giờ, ăn 1 miếng nhỏ dưa hấu thoa bột cam thảo, trị chứng nhức răng, đau cuống họng. ^
ÐU ÐỦ: có thể trị được 13 thứ bịnh:
a.- Buổi sáng, 8 giờ, ăn một phần tư (1/4) miếng đu đủ, trị chứng nóng ở ruột và dạ dày. (Trái đu đủ chia làm 4 miếng)b.- 9 giờ sáng, ăn 1/2 miếng đu đủ để thanh lọc máu.c.- 10 giờ sáng, ăn 1/2 miếng đu đủ, trị được gan nóng (hỏa can) hay nổi giận.d.- 11 giờ sáng, ăn 1/2 miếng đu đủ, trị chứng khô cuống họng.e.- 1 giờ trưa, ăn 1/4 miếng đu đủ thoa bột cam thảo, trị chứng ăn uống không tiêu.f.- 2 giờ trưa, ăn 1/4 miếng đu đủ, trị chứng hôi miệng.g.- 3 giờ chiều, ăn 1/2 miếng đu đủ, trị chứng nóng ở ruột già.h.- 4 giờ chiều, ăn 1/4 miếng đu đủ thoa mật ong, trị chứng cao máu.i.- 5 giờ chiều, ăn 1/2 miếng đu đủ, trị bịnh tiểu đường.j.- 7 giờ tối, ăn đu đủ giải trừ được cơn mệt mỏi trong ngày.k.- 8 giờ tối, ăn 1/4 miếng đu đủ, thanh lọc máu.l.- 9 giờ tối, ăn 1/2 miếng đu đủ thoa đường trắng, trị chứng gan nóng (hỏa can).m.- 10 giờ tối, ăn 1/2 miếng đu đủ thoa muối, trị chứng đau cổ họng. ^
DƯA LEO: trị chứng cảm mạo vào mùa Hè:
a.- Khoảng 11 giờ sáng, ăn 1 trái.b.- Khoảng 4 giờ chiều, ăn 1 trái.c.- Khoảng 10 giờ tối, ăn tiếp thêm 1 trái nữa, sẽ thấy công hiệu ngay.
TRÁI KHẾ: trị bịnh ho.
Vào đầu mùa Hè, ăn khế cần chú ý:- Khi trời mưa, không nên ăn khế.- Khi thời tiết hơi nóng, ăn khế phải thoa đường trắng.- Khi trời trở mát, ăn khế phải thoa muối.- Khi thời tiết không nóng không lạnh thì khỏi cần phải thoa thứ gì cả khi ăn khế.
TRÁI ÐÀO: vào mùa Hè, trước khi đi ngủ ăn 1 trái đào có thể tiêu trừ được sự mệt mỏi trong ngày.
trị được 6 chứng bịnh:
a.- Buổi sáng, khoảng 10 giờ, ăn 1 trái, có tác dụng thanh lọc máu.b.- Buổi chiều, 1 giờ, ăn 1 trái, trị chứng ăn uống không tiêu.c.- Buổi chiều, 2 giờ, ăn 1 trái, trị bịnh tiểu đường.d.- Buổi chiều, 3 giờ, ăn 1 trái, trị chứng sa dạ dày (cần lấy trái thật chín).e.- Buổi chiều, 4 giờ, ăn 1 trái, có tác dụng thanh lọc máu.f.- Buổi chiều, 5 giờ, ăn 1 trái, trị chứng ăn uống không ngon.

TRÁI LỰU: trị được 6 chứng bịnh:
a.- Buổi sáng, khoảng 10 giờ, ăn 1 trái, có tác dụng thanh lọc máu.b.- Buổi chiều, 1 giờ, ăn 1 trái, trị chứng ăn uống không tiêu.c.- Buổi chiều, 2 giờ, ăn 1 trái, trị bịnh tiểu đường.d.- Buổi chiều, 3 giờ, ăn 1 trái, trị chứng sa dạ dày (cần lấy trái thật chín).e.- Buổi chiều, 4 giờ, ăn 1 trái, có tác dụng thanh lọc máu.f.- Buổi chiều, 5 giờ, ăn 1 trái, trị chứng ăn uống không ngon. ^
{/tabs}