Đặt vòng tránh thai

1176

Đặt vòng tránh thai

Đặt vòng là biện pháp ngừa thai phổ biến ở Việt Nam bởi nó có nhiều tiện lợi. Trước tiên là hiệu quả tránh thai tương đối cao, lại kinh tế, chỉ đặt một lần mà có tác dụng tới 5 năm hoặc hơn. Đây cũng là biện pháp tiện lợi cho cả đôi bên, không phải lích kích chuẩn bị mỗi khi “yêu nhau” như dùng bao cao su, phụ nữ cũng không phải cố nhớ “nuốt” một viên thuốc vào một giờ nhất định mỗi ngày, dù hôm đó vợ chồng có “yêu nhau” hay không.

Gọi là “vòng”, nhưng thật ra đó là một mảnh nhựa nhỏ, hình chữ T, được các cán bộ y tế đặt sâu vào trong cổ tử cung (nên nó còn được gọi là dụng cụ cổ tử cung). Vòng này làm cho tinh trùng không thể đi vào lòng tử cung để gặp trứng bằng cách thay đổi môi trường của nội mạc tử cung. Vòng tránh thai không có tác dụng ngăn ngừa bệnh lây lan qua đường sinh dục, thậm chí còn có thể gia tăng mức độ trầm trọng của viêm nhiễm.

Những ngày mới đặt, chị em phụ nữ có thể cảm thấy hơi vướng víu chút ít, nhưng dần dần sẽ quen, cảm giác ấy qua mau. Còn đàn ông chẳng có cảm giác gì về sự hiện diện của cái vòng đó, nếu vợ không nói.

Tuy nhiên, trước khi đặt vòng tránh thai, bạn nên tới các khoa sản hay các trung tâm kế hoạch hoá gia đình để được khám và tư vấn. Có một số trường hợp, người phụ nữ dị ứng với vòng tránh thai (nhất là loại làm bằng đồng), bác sĩ sẽ giới thiệu với họ những biện pháp tránh thai khác. Khi đã đặt vòng, bạn nên đi khám phụ khoa ít nhất một lần trong 6 tháng.

Sau khi đặt vòng tránh thai cần chú ý:

* Người phụ nữ cần được nghỉ ngơi, làm việc nhẹ nhàng trong vòng ba ngày đầu.

* Cần vệ sinh bộ phận sinh dục hàng ngày sạch sẽ 3 lần/ngày bằng nước sạch, không được thụt rửa vào bên trong.

* Cần dùng thuốc đầy đủ theo đúng chỉ định của bác sĩ.

* Cần kiêng QHTD từ 5-7 ngày.

Những trường hợp chống chỉ định

Tuy có nhiều ưu điểm và tỷ lệ tránh thai cao nhưng có những trường hợp chống chỉ định sử dụng vòng tránh thai cần lưu ý:

– Có thai hoặc nghi ngờ có thai.

– Sau phá thai nhiễm trùng.

– Đang bị viêm vùng chậu, bệnh lý lây truyền qua đường tình dục hoặc mắc các bệnh này trong vòng ba tháng trước đây.

– Viêm cổ tử cung mủ nhầy.

– Bệnh lý ác tính đường sinh dục.

– Dị tật bẩm sinh ở tử cung hay u xơ làm biến dạng lòng tử cung.

– Lao vùng chậu.

– Xuất huyết đường sinh dục bất thường chưa được chẩn đoán và điều trị.

– Đối với DCTC phóng thích nội tiết, chống chỉ định trong trường hợp ung thư vú.